Một Chứng Ngôn, một Giao Ước và một Bằng Chứng
Tôi làm chứng rằng Sách Mặc Môn là một giao ước mới, một chứng thư mới từ Tân Thế Giới cho toàn thể thế gian.
Những điều khẳng định thiêng liêng tôi đã có về Đấng Cứu Rỗi và Giáo Hội phục hồi của Ngài đến với tôi khi tôi đọc Sách Mặc Môn vào lứa tuổi thanh niên. Chính là trong lúc đọc biên sử thiêng liêng mà tôi đã—nhiều lần—cảm thấy được lời mách bảo không thể phủ nhận của Đức Thánh Linh phán cùng tâm hồn tôi về lẽ trung thực của sách ấy.
Việc đọc sách ấy là sự khởi đầu cho ánh sáng của tôi. Sách đó là nguồn gốc chắc chắn thuộc linh đầu tiên của tôi rằng Thượng Đế hằng sống, Ngài là Cha Thiên Thượng, và một kế hoạch hạnh phúc đã được phác họa trong thời vĩnh cửu cho tôi. Sách đó dẫn dắt tôi đến việc yêu mến Kinh Thánh và các tác phẩm tiêu chuẩn khác của Giáo Hội. Sách đó dạy tôi biết yêu mến Chúa Giê Su Ky Tô, nhìn thấy lòng trắc ẩn thương xót của Ngài cùng suy nghĩ về ân điển và sự vĩ đại của sự hy sinh chuộc tội của Ngài.
Vì tôi đã tự mình học được rằng Sách Mặc Môn là một bằng chứng chân chính—một chứng thư khác và một giao ước mới—rằng Chúa Giê Su là Đấng Ky Tô, nên tôi cũng biết rằng Joseph Smith là vị tiên tri của Thượng Đế. Như cụ tổ của tôi đã nói trong những thời kỳ đầu tiên của Sự Phục Hồi: “Không có một người tà ác nào có thể viết được một quyển sách như quyển sách này; và không có một người tốt lành nào sẽ viết được sách này, trừ phi sách này là chân chính và người ấy được Thượng Đế truyền lệnh để làm như vậy.”1
Tất cả những giây phút đầy soi dẫn khác cũng như những sự biểu hiện thánh hóa mà ngày nay mang đến ý nghĩa sâu xa nhất và mục đích cho cuộc sống của tôi cùng một nền tảng vững chắc cho chứng ngôn của tôi đã được thêm vào lòng tin chắc ban đầu của tôi. .
Bấy giờ, tôi không có đi tàu với anh của Gia Rết. Tôi không có nghe bài thuyết giảng kỳ diệu của Vua Bên Gia Min. Tôi không ở trong đám đông dân Nê Phi là những người đã sờ tay vào các vết thương của Chúa phục sinh, cũng như tôi không cùng khóc với Mặc Môn và Mô Rô Ni về một nền văn minh bị hủy diệt. Nhưng chứng ngôn của tôi về biên sử này và cảm giác bình an mà biên sử này mang đến cho tấm lòng nhân loại—được ban cho tôi qua lời mách bảo của Đức Thánh Linh cũng giống như cách các anh chị em được ban cho—thì cũng có tính chất gắn bó và rõ rệt như chứng ngôn của họ. Tôi làm chứng về quyển sách này một cách chắc chắn thể như tôi đã cùng với Ba Nhân Chứng nhìn thấy thiên sứ Mô Rô Ni hoặc, với Tám Nhân Chứng, đã chạm tay vào các bảng khắc bằng vàng.
Tôi làm chứng thêm rằng không một người nào trong chúng ta có thể đến với đức tin trọn vẹn trong công việc ngày sau này và nhờ đó tìm ra được mức độ bình an và an ủi trọn vẹn nhất trong thời kỳ chúng ta cho đến khi người ấy chấp nhận thiên tính của Sách Mặc Môn và Chúa Giê Su Ky Tô là Đấng được sách ấy làm chứng. Như Mặc Môn đã nói cùng Mô Rô Ni trong một thời kỳ nguy ngập nhất của họ, tôi cũng xin nói như vậy trong thời kỳ nguy ngập của chúng ta: “Hãy trung thành nơi Đấng Ky Tô. … Và cầu xin ân điển của Thượng Đế Đức Chúa Cha, mà ngôi cao của Ngài ở trên các tầng trời, và Chúa Giê Su Ky Tô của chúng ta, là Đấng ngồi bên tay phải đầy quyền năng của Ngài … ở cùng con mãi mãi” (Mô Rô Ni 9:25–26).
Sách Mặc Môn là biểu hiện thiêng liêng của giao ước lớn và cuối cùng của Đấng Ky Tô với loài người. Đó là một giao ước mới, một chứng thư mới từ Tân Thế Giới cho toàn thể thế gian. Ánh sáng tôi đang bước theo là ánh sáng của Ngài. Lòng thương xót và vẻ uy nghi của Ngài dẫn dắt tôi và các anh chị em trong sự làm chứng của chúng ta cùng thế gian về Ngài.