Vị Tiên Tri của Chúng Ta: Thomas S. Monson
Buổi Họp Đặc Biệt CES Devotional dành cho Các Thành Niên Trẻ Tuổi • Ngày 5 tháng Năm năm 2013 • Brigham Young University–Idaho
“Tạ Ơn Thượng Đế Đã Ban cho Vị Tiên Tri.” (Thánh Ca và Các Bài Ca Thiếu Nhi, trang 36). Bài thánh ca này là một trong những điều tiêu biểu cho Giáo Hội. Chúng ta quả thật tạ ơn Thượng Đế đã ban cho một vị tiên tri để hướng dẫn chúng ta trong những ngày sau cùng này.
Việc Thượng Đế đã ban cho chúng ta một vị tiên tri là trọng tâm của đức tin và niềm tin của Các Thánh Hữu Ngày Sau ở khắp mọi nơi. Chúng ta biết rằng Thượng Đế hằng sống và Ngài yêu thương chúng ta. Chúng ta biết rằng Ngài đã sai Vị Nam Tử của Ngài, Chúa Giê Su Ky Tô, đến làm Đấng Cứu Rỗi và Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, và cũng biết rằng Ngài đã ban cho chúng ta một vị tiên tri.
Những người sống trong những thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội đã cảm thấy vô cùng biết ơn vì đã được sống trong thời kỳ của Tiên Tri Joseph Smith. Các sứ điệp và chứng ngôn về Sự Phục Hồi thường là những kinh nghiệm trực tiếp đối với Các Thánh Hữu thời xưa.
Những điều kỳ diệu đã xảy ra trong những năm Brigham Young chủ tọa Giáo Hội của Chúa. Các Thánh Hữu đi về phía tây và định cư ở giữa Dãy Núi Rocky, là nơi Giáo Hội phát triển mạnh mẽ. Những người sống vào thời gian đó coi đây là một phước lành tuyệt vời để được sống trong thời kỳ của tiên tri Brigham Young.
Mô hình này cũng tiếp tục khi Chúa đã ban cho các vĩ nhân cao quý để hướng dẫn các công việc của Giáo Hội Ngài. Cha mẹ và ông bà của tôi đã nói về vị tiên tri trong thời họ với lòng tôn kính và trìu mến sâu đậm---đó là Chủ Tịch Heber J. Grant.
Đối với Chị Walker và tôi, cũng như đối với nhiều người trong số các bậc cha mẹ và ông bà của các em, chúng tôi yêu mến tấm gương tuyệt vời và những lời giảng dạy phi thường của tiên tri David O. McKay. Theo sau ông là các vị kế nhiệm ông: Joseph Fielding Smith, Harold B. Lee, Spencer W. Kimball, Ezra Taft Benson, và Howard W. Hunter. Mỗi vị này đều đã được chuẩn bị sẵn sàng để dẫn dắt Giáo Hội trong một khoảng thời gian do chính Chúa quyết định. Mỗi vị này đều được các tín hữu của Giáo Hội yêu mến và hỗ trợ.
Hầu hết các em ở đây buổi tối hôm nay sẽ rất thích nhớ lại tài lãnh đạo tuyệt vời của Chủ Tịch Gordon B. Hinckley. Thật là một phước lành để được sống trong thời kỳ ông làm Chủ Tịch của Giáo Hội.
Năm năm trước, Chúa đã kêu gọi Chủ Tịch Hinckley về nhà và Thomas S. Monson trở thành Chủ Tịch của Giáo Hội---vị tiên tri của Chúa trên thế gian ngày nay. Ôi, thật là một phước lành lớn cho các em và tôi được sống trong thời kỳ tuyệt vời khi chúng ta được một vị tiên tri tài giỏi như vậy hướng dẫn.
Đây là Giáo Hội của Chúa. Ngài hoạch định cuộc sống của Các Vị Sứ Đồ tuyệt vời này, và Ngài đặt họ vào vị trí lãnh đạo Giáo Hội của Ngài. Quả thật đó là một trong những đặc điểm nổi bật của Giáo Hội của Chúa là Ngài có các vị sứ đồ và tiên tri trên thế gian ngày nay.
Sứ Đồ Phao Lô mô tả Giáo Hội là ″được dựng lên trên nền của các sứ đồ cùng các đấng tiên tri, chính Đức Chúa Giê Su Ky Tô là đá góc nhà″ (Ê Phê Sô 2:20). Đó là cách thức thời xưa và là cách thức thời nay. Giáo Hội của Chúa được phân biệt bằng cách có các vị sứ đồ và tiên tri, với Chúa Giê Su Ky Tô là đá góc nhà. Mỗi Vị Chủ Tịch của Giáo Hội đều đã làm chứng rằng Chúa Giê Su Ky Tô là Đấng đứng đầu Giáo Hội này.
Không hề ngẫu nhiên, không hề sai lầm, và không được vận động. Trong tất cả mọi vấn đề kế nhiệm trong Chủ Tịch Đoàn của Giáo Hội của Chúa, thì Chúa chịu trách nhiệm, và chắc chắn là ý muốn của Ngài được thực hiện.
Tôi làm chứng với các em rằng đó là ý muốn của Chúa mà ngày nay chúng ta được Thomas S. Monson hướng dẫn, ông là vị tiên tri của Chúa trên thế gian ngày nay.
Như vị tiên tri thời Cựu Ước là Giê Rê Mi đã dạy chúng ta về các vị tiên tri, chúng ta biết điều này là đúng với Chủ Tịch Monson. Thánh thư dạy rằng: ″Trước khi ngươi sanh ra, ta đã biệt riêng ngươi, lập ngươi làm kẻ tiên tri cho các nước” (Giê Rê Mi 1:5).
Tôi muốn nói chuyện với các em hôm nay về cuộc sống và giáo vụ của Chủ Tịch Thomas S. Monson, Vị Chủ Tịch thứ 16 của Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô.
Vào năm cuối cùng trong cuộc đời của Chủ Tịch Hinckley, ông đã chỉ định tôi làm Giám Đốc Điều Hành của Sở Đền Thờ, và Chủ Tịch Monson đã ban cho tôi vinh dự để được phép giữ nhiệm vụ này. Hơn sáu năm qua, tôi đã có phước lành tuyệt vời và khó quên là được hỗ trợ Chủ Tịch Thomas S. Monson và hai cố vấn của ông về các vấn đề đền thờ. Tôi đã ngồi bên cạnh Chủ Tịch Monson khi ông cho tôi nhiều lời khuyên bảo và hướng dẫn về đền thờ và các vấn đề liên quan đến đền thờ trên khắp thế giới. Ông đã mời tôi cùng đi theo ông đến các lễ cung hiến đền thờ, lễ động thổ, và tham quan các địa điểm tương lai của đền thờ. Tôi đã có được phước lành để cùng đi với ông trên khắp thế giới, đến những nơi xa xôi như Kiev, ở Ukraine, và Cebu, ở Philippine, và đến những nơi thú vị khác, như Rome, Ý.
Khi ông đi khắp nơi trên thế giới, thì tôi đã được phước cũng có mặt ở đó để chứng kiến tình yêu thương sâu đậm của ông dành cho mọi người---không chỉ các tín hữu của Giáo Hội, mà còn tất cả mọi người. Tôi đã chứng kiến lòng nhiệt tình và thái độ thân thiện không ngừng của ông, thái độ dịu dàng và nhạy cảm giống như Đấng Ky Tô của ông, đặc biệt là đối với trẻ em, người già, và người bệnh. Nhiều lần, trong khi theo dõi Chủ Tịch Monson, tôi đã có ấn tượng: ″Đó là cách mà Đấng Cứu Rỗi sẽ hành động. Đó là cách mà Đấng Cứu Rỗi sẽ đối xử với mọi người.”
Tôi đã chứng kiến tinh thần hăng hái vô bờ bến của ông, động lực và quyết tâm của ông, niềm vui của ông trong cuộc sống, và ước muốn sâu thẳm của ông để phục vụ Chúa và làm như Đấng Cứu Rỗi muốn ông phải làm. Ông không bao giờ mỏi mệt trong công việc của Chúa.
Trong Giáo Lý và Giao Ước, tiết 52, câu 14, Chúa phán: ″Ta ban cho các ngươi một mẫu mực cho mọi sự việc, để các ngươi khỏi bị lừa gạt.″
Tôi yêu thích câu thánh thư này vì nó dạy cho tôi biết rằng Chúa sẽ ban cho tôi một mẫu mực và chỉ cho tôi thấy cách làm việc, cách hành động, cách sống. Nhưng đó không phải chỉ là cho tôi, mà đó là cho mỗi người chúng ta. Chúa quả thật chỉ cho chúng ta con đường. Ngài quả thật ban cho mẫu mực trong mỗi cuộc sống của chúng ta để cho chúng ta thấy cách phải sống theo.
Tôi tin rằng một trong những mẫu mực quan trọng trong cuộc sống của chúng ta là cuộc sống của vị tiên tri đang hướng dẫn và chỉ dẫn Giáo Hội của Chúa trong thời kỳ của chúng ta. Như tôi đã đề cập trước đây, khi còn trẻ, Chủ Tịch David O. McKay là một mẫu mực đối với tôi. Tôi đã yêu mến ông và tán trợ ông, cầu nguyện cho ông, học hỏi kỹ lời nói của ông, và tôi muốn được giống như ông nhiều đến mức tôi có thể tưởng tượng là tôi có thể làm được.
Tôi nghĩ rằng khi còn trẻ, cha mẹ của nhiều em đều coi Chủ Tịch Spencer W. Kimball là mẫu mực của họ. Dĩ nhiên, đối với mỗi người chúng ta, ước muốn lớn nhất của chúng ta là bắt chước sống theo cuộc sống mẫu mực của Đấng Cứu Rỗi---noi theo Ngài, sống theo các giáo lệnh của Ngài, và làm hết sức mình để được càng giống như Ngài hơn.
Trong 3 Nê Phi 27:27, Chúa Giê Su đã dạy: ″Các ngươi nên là những người như thế nào? Quả thật, ta nói cho các người hay, các ngươi phải giống như ta vậy.”
Đó là mục tiêu chính của chúng ta—được giống như Ngài.
Trên tường trong mỗi văn phòng ông đã sử dụng kể từ khi được kêu gọi với tư cách là giám trợ, Chủ Tịch Monson đã treo một bức tranh quen thuộc về Đấng Cứu Rỗi do Heinrich Hofmann họa. Đó là bức chân dung tuyệt mỹ của Đấng Cứu Rỗi.
Chủ Tịch Monson đã nói về bức tranh này: ″Tôi thích bức tranh này, mà tôi đã có kể từ khi là một giám trợ hai mươi hai tuổi và tôi đã mang bức tranh đó theo bất cứ nơi nào tôi được chỉ định phục vụ. Tôi đã cố gắng bắt chước sống theo cuộc sống mẫu mực của Đức Thầy. Bất cứ khi nào tôi gặp phải một quyết định khó để thực hiện thì tôi luôn luôn nhìn vào bức tranh đó và tự hỏi: ′Ngài sẽ làm gì?′ Rôi tôi cố gắng làm theo″(trong Heidi S. Swinton, To the Rescue: The Biography of Thomas S. Monson [2010], 135).
Tôi biết rằng Chủ Tịch Monson nghĩ về việc noi theo gương của Chúa Giê Su. Một lần tôi đã có mặt vói Chủ Tịch Monson trong một buổi họp trước lễ cung hiến đền thờ. Ông vừa bay tới vào ngày hôm đó, và khi buổi họp tối sắp kết thúc, thì tôi nghĩ rằng Chủ Tịch Monson có thể là mệt mỏi, và tôi muốn chắc chắn rằng ông được nghỉ ngơi một chút trước khi các buổi họp của ngày hôm sau. Khi bài thánh ca kết thúc được hát lên, tôi nghiêng người sang Chủ Tịch Monson và nói: ″Thưa chủ tịch, sau phần cầu nguyện kết thúc, nếu chúng ta nhanh chóng lẻn ra cửa bên hông, thì chúng tôi có thể giúp chủ tịch nhanh trở lại khách sạn và để có thể được nghỉ ngơi.″
Với vẻ khó hiểu, ông nói với tôi: ″Anh Cả Walker à, nếu Chúa Giê Su ở đây, thì anh có nghĩ rằng Ngài sẽ nhanh chóng lẻn ra cửa bên hông khi buổi họp kết thúc không?″
Tôi đã không đề nghị điều đó thêm một lần nữa. Giống như Đấng Cứu Rỗi có thể sẽ làm, chủ tịch đã muốn được ở với các tín hữu. Ông không hề nghĩ tới bản thân mình. Ông nghĩ tới điều tốt lành ông có thể làm.
Tôi đã luôn luôn cảm thấy rằng tôi có thể là một người tốt hơn khi tôi bắt chước sống theo cuộc sống mẫu mực của những người ngay chính mà Chúa đã đặt trên con đường của tôi: ông bà, cha mẹ, các giám trợ, chủ tịch phái bộ truyền giáo của tôi, và dĩ nhiên, vị tiên tri của Thượng Đế là người tôi có thể thấy, và nghe, ông cũng là người tôi cầu nguyện cho mỗi ngày. Tôi chắc chắn là hầu hết các em cũng làm như vậy.
Thật là một phước lành tuyệt vời trong cuộc sống của tôi khi tôi tìm cách được giống như Chúa hơn và tìm cách được giống như vị tiên tri của Ngài---Chủ tịch Thomas S. Monson.
Tôi xin chia sẻ với các em một chút về cuộc đời và những lời giảng dạy của Chủ Tịch Monson, và hy vọng rằng, khi tôi làm như vậy, các em sẽ có thể nhận ra các đặc điểm mà các em sẽ muốn đưa vào cuộc sống của mình. Chúng ta đều sẽ được phước để tìm cách sống cuộc sống của mình theo như vị tiên tri của Chúa và học hỏi từ ông.
Giống như Nê Phi, và cũng giống như hầu hết các em, Thomas S. Monson sinh ra trong một gia đình nề nếp. Ông ra đời ở Salt Lake City vào ngày 21 tháng 8 năm 1927. Ông lớn lên trong hoàn cảnh khiêm tốn. Ông không bao giờ cố gắng để tái xác định nơi ông lớn lên. Với óc hài hước đầy khiêm tốn, kết hợp với cảm giác thoải mái hoàn toàn về con người mình, Chủ Tịch Monson thỉnh thoảng nói ông không cần phải lo lắng về việc ông lớn lên ở khu vực nhà giàu hay nhà nghèo---vì ông lớn lên ở giữa khu vực nhà giàu và nhà nghèo.
Tôi luôn luôn cảm kích trước việc ông luôn luôn nói về tuổi trẻ của mình một cách trìu mến. Tôi nghĩ ông rất giống như Nê Phi. Dường như La Man và Lê Mu Ên rất giỏi trong việc nhìn nhận những vấn đề khó khăn và nhìn vào mặt tiêu cực của tất cả mọi điều. Mặt khác, Nê Phi rất tích cực, lạc quan, và biết ơn. Ông đã nhìn thấy điều tốt lành trong tất cả mọi điều xung quanh ông. Tommy Monson đã lớn lên như thế---và ông vẫn như vậy suốt cuộc đời mình!
Ông là một học sinh giỏi, và có lẽ quan trọng hơn, ông là một thiếu niên ngoan. Ông đã cho thấy ước muốn của mình để phục vụ Chúa một cách xuất sắc khi ông được kêu gọi phục vụ với tư cách là thư ký của nhóm túc số các thầy trợ tế trong tiểu giáo khu của ông. Gần 70 năm sau, với tư cách là Chủ Tịch của Giáo Hội, ông nhớ lại với một chút tự hào về ước muốn của ông để làm cho biên bản của nhóm túc số là tốt nhất mà họ có thể có được. Ông không suy nghĩ về ″Tại sao tôi là thư ký mà không phải là chủ tịch của nhóm túc số?″ Ông chỉ muốn làm công việc của mình thật giỏi. Ông đã được kêu gọi vào một chức vụ trong Giáo Hội của Chúa, và ông muốn làm hết sức mình. Ông muốn các biên bản phải được rành mạch và ngắn gọn, và vì vậy ông đã đánh máy các biên bản cho nhóm túc số các thầy trợ tế. Là một thiếu niên 12 tuổi, ông đã nêu lên một tấm gương tuyệt vời cho chúng ta.
Nếu điều này nghe có vẻ phi thường đối với các em, thì tôi không ngạc nhiên đâu. Điều đó cũng thật là phi thường đối với chủ tịch giáo khu của ông, nên khi nghe nói về việc làm xuất sắc của thiếu niên Tommy, vị chủ tịch đã kêu gọi ông nói chuyện trong đại hội giáo khu---với tư cách là thư ký của nhóm túc số các thầy trợ tế. Các em có bao giờ nghe nói về người thư ký của một nhóm túc số các thầy trợ tế nói chuyện trong đại hội giáo khu chưa? Thật là một tấm gương cho tất cả chúng ta!
Ông tốt nghiệp trung học và gia nhập Hải Quân Hoa Kỳ. Ông đã phục vụ đất nước của mình, và trong khi làm như vậy, ông giữ mình được trong sạch và đức hạnh. Ông trở về từ nghĩa vụ quân sự và học hành chăm chỉ để có được một nền học vấn tốt. Ông là một sinh viên giỏi--một tấm gương sáng nữa cho tất cả chúng ta! (Tấm gương của một sinh viên giỏi có thể quan trọng đối với một số các em hơn là với các em khác).
Ông tìm hiểu và yêu một cô gái Thánh Hữu Ngày Sau xinh đẹp tên là Frances Johnson, và ngay sau đó đã cầu hôn với cô. Họ kết hôn trong Đền Thờ Salt Lake vào ngày 7 tháng Mười năm 1948, vào lúc 21 tuổi. Thật là một tấm gương cho tất cả chúng ta! (Một lần nữa, có lẽ điều này là quan trọng đối với một số em hơn là đối với các em khác).
Mặc dù mới kết hôn chỉ được 18 tháng, và trong khi làm việc để được thành công trong một việc làm mới, nhưng ông vẫn chấp nhận sự kêu gọi từ Chúa để phục vụ với tư cách là giám trợ của một tiểu giáo khu ở trong thành phố. Đó là tiểu giáo khu nơi ông lớn lên. (Hãy suy nghĩ về điều đó!) Ông không nói: ″Chưa đúng lúc″ hoặc ″Tôi còn quá trẻ″; ông chỉ chấp nhận sự kêu gọi, tin cậy vào Chúa, và dấn thân vào công việc chỉ định với tất cả nghị lực và tài năng mà Chúa đã ban cho ông. Ông muốn trở thành con người tốt nhất mà ông có thể trở thành trong việc phục vụ Chúa.
Giám Trợ trẻ tuổi Monson bắt đầu yêu thích một câu thánh thư mà có thể ban phước cho mỗi cuộc sống của chúng ta, cũng như nó đã ban phước cho cuộc sống của ông:
“Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê Hô Va, Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;
“Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Châm Ngôn 3:5–6).
Cho đến ngày nay, Chủ Tịch Monson vẫn thường trích dẫn thánh thư và sống cuộc sống của ông phù hợp với điều mà thánh thư giảng dạy cho chúng ta. Ông thật là một tấm gương sáng cho tất cả chúng ta! Chúng ta đều sẽ làm giỏi nếu chúng ta ghi nhớ câu thánh thư đó và làm cho nó thành một phần quan trọng trong triết lý sống của chúng ta---cũng giống như Chủ Tịch Monson đã làm.
Tiểu giáo khu của Giám Trợ Monson đã có hơn 1.000 tín hữu, kể cả 84 góa phụ. Chúng ta đã được phước trong đại hội trung ương và thỉnh thoảng trong các dịp khác được nghe ông nói về một số kinh nghiệm tuyệt vời khi ông chăm sóc các chị em phụ nữ này là những người rất có phước để được ông chăm sóc.
Đối với tôi, mỗi khi nghe ông nói về một trong những kinh nghiệm của ông khi làm giám trợ, tôi nhận biết rằng tình yêu thương và mối quan tâm của ông dành cho các tín hữu trong tiểu giáo khu của ông đã không kết thúc khi ông được giải nhiệm với tư cách là giám trợ, điều này làm cho tôi thán phục ông vô cùng. Ông được kêu gọi vào chủ tịch đoàn giáo khu lúc 27 tuổi, nhưng thậm chí nhiều năm sau đó (sau khi ông được kêu gọi với tư cách là chủ tịch phái bộ truyền giáo và Sứ Đồ), ông vẫn tiếp tục yêu thương, chăm sóc, và quan tâm đến các tín hữu lớn tuổi hơn trong tiểu giáo khu của ông. Rõ ràng là ông không những yêu thương và chăm sóc cho họ vì nhiệm vụ. Tình yêu thương và mối quan tâm của ông dành cho họ đã ghi sâu vào lòng của ông và không thể bị lấy đi bởi bất cứ sự thay đổi nhiệm vụ nào.
Khi làm điều này, Chủ Tịch Monson đã chỉ cho chúng ta thấy con đường. Đó là một con đường tốt hơn; đó là con đường của Chúa. Ông yêu thương và quan tâm đến những người khác---giống như Chúa đã dạy chúng ta rằng chúng ta cũng nên như vậy. Ông thật là một tấm gương sáng cho tất cả chúng ta!
Lúc 31 tuổi, Chủ Tịch Monson được kêu gọi với tư cách là chủ tịch của Phái Bộ Truyền Giáo Canada, có trụ sở ở Toronto, Ontario. Cũng giống như ông đã làm khi là giám trợ, ông đã dấn thân vào nhiệm vụ của mình, hy sinh cho nhiệm vu này với tất cả mọi thứ ông có, và hết lòng tin cậy nơi Chúa. Tất cả mọi người xung quanh ông có thể nhận thấy tình yêu mến của ông dành cho Chúa, tình yêu của ông dành cho vợ con mình, tình yêu thương của ông dành cho những người truyền giáo và các tín hữu, và tình yêu mến của ông dành cho Canada, đất nước nơi ông đã được kêu gọi phục vụ. Ảnh hưởng của ông với tư cách là chủ tịch phái bộ truyền giáo thật là vô biên và cho đến ngày nay không thể đo lường được. Những người truyền giáo yêu mến ông và tìm cách sống một cuộc sống mà có thể làm cho vị chủ tịch phái bộ truyền giáo của mình hãnh diện. Chúng ta đều có thể học hỏi được từ đó.
Cũng giống như ông đã làm khi được giải nhiệm với tư cách là giám trợ, ông vẫn tiếp tục gìn giữ trong tim mình những cảm nghĩ và tình cảm đối với những người truyền giáo của ông và Các Thánh Hữu đã được ban phước dưới sự chăm sóc của ông. Tôi đã từng chứng kiến tình cảm và mối quan tâm không hề giảm bớt của Chủ Tịch Monson đối với những người truyền giáo đã phục vụ dưới quyền ông trong Phái Bộ Truyền Giáo Canada. Thật là một tấm gương sáng!
Tôi biết những người truyền giáo đã được phước vì có Thomas S. Monson là chủ tịch phái bộ truyền giáo của họ đã cố gắng làm theo mẫu mực phục vụ ngay chính trong vương quốc của Chúa mà Chủ Tịch và Chị Monson đã nêu lên cho họ. Để minh họa, tôi chia sẻ với các em một sự kiện đáng kể là trong số các chủ tịch của 141 đền thờ hiện đang phục vụ trên toàn thế giới, thì trong đó có năm vị là những người truyền giáo trẻ tuổi đã phục vụ dưới thời Chủ Tịch Monson trong Phái Bộ Truyền Giáo Canada.
Hàng ngàn các em hiện có mặt với chúng tôi buổi tối hôm nay là những người truyền giáo đã được giải nhiệm. Tôi cầu nguyện rằng mỗi người chúng ta sẽ noi theo tấm gương của năm vị chủ tịch đền thờ này và cố gắng trung thành cùng bước đi trên con đường phục vụ ngay chính theo mẫu mực của các chủ tịch phái bộ truyền giáo của chúng ta.
Tôi rất cảm động khi mới gần đây xem một tấm ảnh trong Tin Tức Giáo Hội về việc Chủ Tịch Monson đến thăm một người trong một bệnh viện ở Toronto, Canada (xin xem “Teachings of the Prophet,” Church News, ngày 3 tháng Hai năm 2013, 7). Người này đã phục vụ bên cạnh Chủ Tịch Monson cách đây 50 năm. Chủ Tịch Monson đã không quên người này. Nhiều năm đã trôi qua và nhiều dặm đường đã không lấy đi khỏi Chủ Tịch Monson những cảm nghĩ yêu thương và biết ơn tuyệt vời đối với những người cùng phục vụ Chúa với nhau. Tôi hy vọng rằng mỗi người chúng ta sẽ noi theo gương của ông và không quên những người đã ban phước cho cuộc sống của mình trong quá khứ.
Vào năm 1963, khi được 36 tuổi, Thomas S. Monson được mời đến văn phòng của Chủ Tịch của Giáo Hội vào lúc ấy là Chủ Tịch David O. McKay. Vào buổi họp mặt này, Chủ Tịch McKay đã kêu gọi ông với tư cách là một Sứ Đồ của Chúa Giê Su Ky Tô.
Chủ Tịch Monson là Vị Sứ Đồ duy nhất được kêu gọi vào Nhóm Túc Số Mười Hai ở một lứa tuổi trẻ như vậy trong 100 năm qua. Chắc chắn là bàn tay của Chúa đã hướng dẫn sự kêu gọi của Vị Sứ Đồ trẻ tuổi này, vì Chúa biết Thomas S. Monson sẽ lãnh đạo Giáo Hội trong thời kỳ chúng ta.
Đại hội trung ương tháng Mười năm nay sẽ kỷ niệm 50 năm khi Thomas S. Monson được kêu gọi với tư cách là một Sứ Đồ. Ôi thật là tuyệt vời, phải không? (Chúng ta chưa có một Sứ Đồ nào kỷ niệm 50 năm làm Sứ Đồ trong Nhóm Túc Đồ Mười Hai kể từ thời Joseph Fielding Smith).
Trong 22 năm, Chủ Tịch Monson đã phục vụ với tư cách là cố vấn cho ba Vị Chủ Tịch của Giáo Hội: Ezra Taft Benson, Howard W. Hunter, và Gordon B. Hinckley. Vào ngày 3 Tháng Hai năm 2008, Thomas S. Monson đã được sắc phong và phong nhiệm với tư cách là Chủ Tịch của Giáo Hội. Ông có hai cố vấn cao quý và tài giỏi bên cạnh: Chủ Tịch Henry B. Eyring và Chủ Tịch Dieter F. Uchtdorf. Họ là ba thầy tư tế thượng phẩm chủ tọa hướng dẫn Giáo Hội của Chúa trên thế gian ngày nay (xin xem GLGƯ 107:22).
Giáo vụ đáng kể của Chủ Tịch Monson thường được tiêu biểu bởi câu nói ″đi giải cứu.″ Heidi Swinton đã viết một cuốn tiểu sử kỳ diệu về cuộc đời của ông, và chị ấy đã đặt một cái tên thích hợp cho sách là Đi Giải Cứu. Cuốn tiểu sử này được xuất bản vào năm 2010. Nếu các em chưa đọc sách này, tôi thật lòng giới thiệu sách đó với các em. Sách ấy sẽ ban phước cho cuộc sống của các em.
Dĩ nhiên, sứ điệp này cũng là sứ điệp mà Chúa Giê Su đã ban cho chúng ta trong Lu Ca: bỏ lại ″chín mươi chín con chiên″ và đi giải cứu một con chiên (Lu Ca 15:4). Đây là nền tảng phúc âm của Chúa Giê Su Ky Tô, phải yêu thương đồng bào chúng ta và làm hết sức mình để có thể ban phước cho cuộc sống của họ. Chủ Tịch Monson đã luôn luôn giảng dạy những nguyên tắc này, nhưng quan trọng hơn, ông đã sống theo cách đó. Cuộc sống của ông tràn đầy với vô số tấm gương về việc tìm đến thăm hỏi, an ủi, hoặc phụ giúp những người gặp hoạn nạn nhất: các góa phụ, trẻ em, người bệnh, người khổ sở, và những người cô đơn hay đau khổ.
Sứ Đồ Gia Cơ đã viết: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia Cơ 1:27).
Đây là cách Chủ Tịch Monson đã sống cuộc sống của mình. Bài học dành cho chúng ta là một người không cần phải là một Sứ Đồ cũng có thể sống theo cách này. Chúng ta có thể sống theo tôn giáo của mình, chúng ta có thể đi thăm trẻ mồ côi và các góa phụ, và chúng ta có thể giữ cho mình khỏi tì vết của thế gian. Chúng ta có thể hướng tới vị tiên tri của mình để xem mình đã làm điều này như thế nào! Chúng ta có thể tự nói với mình: ″Đó là con người mà tôi muốn trở thành.″
Cách đây vài năm, ngay trước khi đại hội trung ương, Chủ Tịch Monson đã dạy thêm một bài học tuyệt vời khác. Lần này là cho buổi họp của Các Vị Thẩm Quyền Trung Ương, là những người đã đi đến Salt Lake City, nhiều người đến từ khắp thế giới nơi họ đang phục vụ trong Các Chủ Tịch Đoàn Giáo Vùng. Đó là một buổi họp rất quan trọng. Chúng tôi đã cùng nhau đến để được Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn và Nhóm Túc Số Mười Hai hướng dẫn.
Khi sắp đến giờ họp, mọi người dường như đều có mặt ngoại trừ Chủ Tịch Monson. Vài phút trước khi buổi họp bắt đầu, chúng tôi dừng lại thăm hỏi nhau và ngồi nghiêm trang lắng nghe những khúc nhạc dạo---trông đợi vị tiên tri sẽ đến bất cứ lúc nào.
Chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi đến 9 giờ sáng và rồi trôi qua. Một người nào đó đi ra phía cửa bên hông---rõ ràng là để xem có cần phụ giúp gì không. Khi trở vào phòng thì người này cho chúng tôi biết là ″Chủ Tịch Monson sẽ đến ngay.″
Khoảng 15 phút sau khi buổi họp dự định bắt đầu, Chủ Tịch Monson bước vào phòng. Chúng tôi lễ phép đứng lên khi ông bước vào. Chúng tôi vui mừng khi thấy ông và hài lòng khi thấy ông khỏe mạnh. Hình như không có lý lo hiển nhiên nào mà ông phải đến muộn như vậy.
Chủ Tịch Monson đi thẳng đến bục giảng và nói: ″Thưa các anh em, tôi xin lỗi đến muộn, vợ tôi cần tôi buổi sáng hôm nay.″
Tôi cảm thấy rất cảm kích và hạ mình. Tôi không thể không nghĩ đến những lời của Chủ Tịch Monson. Đây là một buổi họp rất quan trọng. Toàn bộ giới lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội đã nhóm họp lại, nhưng Chủ Tịch Monson đã nêu gương cho tất cả chúng tôi. Vợ ông cần ông, và ông đã dành thời gian cần thiết để chăm sóc cho bà. Đó là một bài giảng tuyệt vời. Tôi không nhớ bất cứ điều gì khác đã được nói ra ngày hôm ấy, nhưng tôi vẫn nhớ bài giảng rằng: ″Vợ tôi cần tôi.″
Bài giảng này đã được củng cố trong một dịp khác khi Chủ Tịch Monson nói, trích dẫn: ″Khi tôi nghe những người đàn ông nói rằng họ yêu vợ mình, thì tôi muốn nói với họ: ′Hãy chứng minh điều đó bằng cách các anh đối xử với vợ mình như thế nào và phục vụ vợ mình.′″
Chủ Tịch Monson là như thế: Ông luôn luôn quan tâm đến người khác. Ông luôn luôn cho thấy lòng nhân từ và sự chăm sóc đối với người khác.
Ta không cần phải ở gần Chủ Tịch Monson lâu để cảm nhận được tình yêu thương sâu đậm và sự cam kết của ông đối với người vợ yêu quý của ông, Chị Frances Monson. Bất cứ lúc nào ông nói về bà, đôi mắt của ông đều sáng lên và ông đều nở một nụ cười thật tươi trên khuôn mặt. Ta biết đây là một người có tình yêu dành cho vợ của mình và đó là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Chủ tịch và Chị Monson đã cho chúng ta thấy tấm gương của một đôi nam nữ cùng mang ách chung với nhau trong tình yêu mến của họ đối với Chúa và ước muốn của họ để phục vụ Ngài trong sự ngay chính.
Tôi muốn được giống như Chúa, nhưng tôi cũng muốn được giống như vị tiên tri của Ngài.
Nếu các em tự hỏi Chủ Tịch Monson có thể mong muốn điều gì cho mỗi em, thì có lẽ kinh nghiệm sau đây sẽ giúp các em biết:
Vào tháng Mười Một năm ngoái, Đền Thờ Boise Idaho đẹp đẽ đã sẵn sàng cho lễ cung hiến, sau khi đã đóng cửa 18 tháng để sửa sang và nâng cấp. Sau 30 năm được Các Thánh Hữu trung tín trong một phần của Idaho và các vùng phụ cận sử dụng một cách đáng kể, ngôi đền thờ này rất cần được sửa chữa. Theo lệ thường sau khi ngôi đền thờ được hoàn tất, để ăn mừng nhân dịp lễ tái cung hiến đền thờ, giới trẻ trong khu vực đền thờ được mời trình diễn một chương trình văn hóa hoành tráng. Đó là một buổi tối ca hát, nhảy múa và bày tỏ đức tin và lòng biết ơn của họ đối với đền thờ.
Tôi ngồi bên cạnh Chủ Tịch Monson trong khi chúng tôi theo dõi những màn trình diễn tuyệt vời của các giáo khu khác nhau. Một trong những màn nhảy múa là do một nhóm thiếu nữ duyên dáng trình diễn. Trong khi thưởng thức thức màn trình diễn này, Chủ Tịch Monson nghiêng người sang tôi và bày tỏ những cảm xúc của lòng mình. Ông nói: ″Tôi hy vọng là mỗi một người trong số họ sẽ có một lễ hôn phối trong đền thờ. Tôi rất muốn mỗi một người trong số họ có được phước lành đó---được kết hôn trong đền thờ.″
Tôi nghĩ: ″Thật là tuyệt vời. Vị tiên tri của Thượng Đế đang ở đây chứng kiến lễ hội ca hát và nhảy múa này của giới trẻ, và đối với ông thì lễ hội này rõ ràng liên kết với đền thờ mà ông sẽ làm lễ cung hiến vào buổi sáng hôm sau. Hy vọng của ông là mỗi một người trong số họ đều có một lễ hôn phối trong đền thờ.″ Nếu đó là ước muốn của vị tiên tri cho chúng ta, và đúng thế, đó là ước muốn của ông, thì mỗi người chúng ta nên muốn điều đó cho bản thân mình, và đó phải là một mục tiêu rất quan trọng trong mỗi cuộc sống của chúng ta.
Tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm khác với các em:
Chủ Tịch Monson, Chủ Tịch Eyring, và Anh Cả Quentin L. Cook thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai đã đi đến Laie, Hawaii, để làm lễ tái cung hiến ngôi đền thờ tráng lệ ấy vào tháng Mười Một năm 2010. Đêm trước khi lễ cung hiến đền thờ, chúng tôi đã quy tụ tại Trung Tâm Cannon trong khuôn viên trường BYU-Hawaii để dự buổi trình diễn văn hóa. Chương trình thật là tuyệt vời. Qua bài hát, điệu nhảy, và bài thuyết minh, giới trẻ của khu vực đền thờ kể câu chuyện về lịch sử của Giáo Hội ở Hawaii. Họ kể về những người truyền giáo và những người cải đạo đầu tiên. Họ kể câu chuyện phi thường của vị tiên tri tương lai Joseph F. Smith là người đã được kêu gọi phục vụ truyền giáo ở Hawaii vào năm 1854, khi ông mới 15 tuổi. Thiếu niên Joseph F. Smith trở về từ công việc truyền giáo dài ba năm của mình ngay trước sinh nhật lần thứ 19 của ông. (Và các em nghĩ rằng sự thay đổi độ tuổi truyền giáo gần đây xuống 18 tuổi là đáng kể, phải không?)
Lễ hội trình diễn văn hóa tiếp tục khi giới trẻ mô tả sự phát triển của Giáo Hội trong dân Polynesia và kể câu chuyện Chủ Tịch Joseph F. Smith trở lại Hawaii hơn 50 năm sau đó và với tư cách là Chủ Tịch của Giáo Hội đã làm lễ cung hiến địa điểm và làm lễ động thổ cho việc xây cất Đền Thờ Laie Hawaii.
Lễ hội trình diễn văn hóa thật là tuyệt vời, và Chủ Tịch Monson đã ưa thích tất cả các màn trình diễn. Ông rất thích tiết mục biểu diễn tiết mục múa ″Boogie Woogie Bugle Boy,″ rất phổ biến trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, vì nó làm ông gợi nhớ đến những ngày còn trong Hải Quân Hoa Kỳ. Những tiết mục khác tập trung vào những điệu nhảy khác nhau của người dân trên đảo.
Một màn về điệu nhảy hula tuyệt đẹp đã được trình diễn. Một trong các thiếu nữ tham gia vào điệu nhảy này ngồi trong một chiếc xe lăn. Em ấy rất xinh đẹp, và mặc dù không phải sử dụng đôi chân của mình, nhưng em ấy đã trình diễn điệu nhảy đó rất đẹp mắt. Chủ Tịch Monson chỉ cho tôi thấy em ấy và nhận xét về vẻ yêu kiều và xinh đẹp của em ấy khi em ấy trình diễn điệu nhảy.
Khi chương trình kết thúc, mọi người đều hài lòng về màn trình diễn tuyệt vời đó. Khi chúng tôi rời bục chủ tọa, tất cả những người tham gia múa đều đã trở lại sàn diễn, kể cả những người múa hula. Chủ Tịch Monson đã không đi theo lối ra theo như dự kiến mà lại đi thẳng đến sàn diễn để bày tỏ lòng biết ơn của ông đối với những người trẻ tuổi, và đặc biệt là ông đã đi thẳng tới cô bé xinh đẹp ngồi trong chiếc xe lăn để khen tặng và bày tỏ tình yêu mến của ông với em ấy.
Mặc dù đang ở giữa lễ hội và đám đông người, một lần nữa Chủ Tịch Monson cho thấy tình yêu thanh khiết của Đấng Cứu Rỗi. Ông đã đi đến bên cô bé ấy. Ông cúi xuống và hôn lên trán của em ấy. Tôi nghĩ: ″Thật là tuyệt vời. Một lần nữa vị tiên tri của Thượng Đế đã cho chúng ta thấy làm thế nào để tìm đến những những người xung quanh mình, với lòng tử tế và nhân từ, và làm thế nào để khuyến khích và nâng đỡ.″ Tôi nghĩ: ″Đây là cách mà Chúa Giê Su sẽ hành động. Đây là cách mà Đấng Cứu Rỗi sẽ muốn chúng ta đối xử với những người khác.″
Tôi thích bài hát của Hội Thiếu Nhi với lời: “Tôi đang cố gắng giống như Chúa Giê Su” (“I’m Trying to Be Like Jesus,” Children's Songbook, 78). Và tôi muốn thêm vào lời đó: “Và tôi đang cố gắng giống như vị tiên tri của Ngài.”
Tôi xin đề nghị năm cách chúng ta co thể noi theo gương của Chủ Tịch Monson:
Trước hết, chúng ta có thể lạc quan, và chúng ta có thể được hạnh phúc.
Trong sách Trân Châu Vô Giá, Tiên Tri Joseph Smith được mô tả là có nét mặt vui vẻ (xin xem Joseph Smith—Lịch Sử 1:28). Điều đó cũng mô tả Chủ Tịch Monson. Ông thật sự có nét mặt vui vẻ.
Trong một dịp nọ, Chủ Tịch Monson đã nói: ″Chúng ta có thể chọn để có một thái độ lạc quan. Chúng ta không thể điều khiển cơn gió, nhưng chúng ta có thể điều chỉnh cánh buồm. Nói cách khác, chúng ta có thể chọn để được vui vẻ và lạc quan, bất kể điều gì đang ở trước mắt chúng ta″ (“Messages of Inspiration from President Monson,” Church News, Ngày 2 tháng Chín năm 2012, 2).
Một ngày nọ tôi đang chờ ở bên ngoài phòng họp của Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn. Tôi được mời đến đó để tham dự một buổi họp thảo luận về các vấn đề đền thờ. Tôi lặng lẽ ngồi một mình ở bên ngoài phòng. Tôi tưởng rằng Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn đã họp rồi và tôi sẽ được mời vào họp cùng họ trong một vài phút nữa. Khi ngồi đó, tôi có thể nghe một người nào đó đi vào hành lang và huýt sáo. Tôi tự nghĩ: ″Một người nào đó không hiểu nghi thức ngoại giao thích hợp. Ta không đi dạo xung quanh và huýt sáo bên ngoài văn phòng của Chủ Tịch Giáo Hội như thế.″ ″Một lát sau người huýt sáo đi gần đến góc hành lang---đó chính là Chủ Tịch Monson. Ông rất vui vẻ, và đầy lạc quan. Ông chào hỏi tôi nồng nhiệt và nói: ″Tôi đoán là chúng ta sẽ bắt đầu buổi họp trong một vài phút nữa.″ Mặc dù với sức nặng của toàn thể Giáo Hội đặt trên vai của mình, nhưng ông vẫn là tấm gương về tính tình vui vẻ và ông luôn luôn có một thái độ lạc quan. Chúng ta cần phải như vậy.
Thứ hai, chúng ta có thể tử tế và nhân từ đối với trẻ em, theo như Chủ Tịch Monson đã làm.
Chúa Giê Su thường nói về trẻ em. Vị tiên tri của Ngài, Chủ Tịch Monson, cũng thường nói về trẻ em, và tôi đã đặc biệt nhìn thấy tại các buổi lễ cung hiến đền thờ ông đã yêu mến trẻ em như thế nào, và qua tấm gương của ông, đã dạy chúng ta cách đối xử với chúng. Tại mỗi buổi lễ cung hiến đền thờ, ông đều tập trung vào trẻ em. Ông thích mời chúng tham gia vào lễ đặt viên đá góc nhà và luôn luôn mời một vài em trét vữa vào viên đá góc nhà để tham gia vào việc hoàn tất đền thờ bằng biểu tượng. Ông làm cho chúng cảm thấy thích thú với sự kiện này. Ông làm cho chúng ghi nhớ sự kiện này. Ông luôn luôn có một nụ cười tươi đối với chúng. Ông khuyến khích và khen ngợi chúng. Đó là một điều tuyệt vời để thấy.
Lời chào hỏi nồng nhiệt của ông thỉnh thoảng gồm có việc xòe bàn tay ra vỗ vào bàn tay các em, nhúc nhích đôi tai của ông, khuyến khích các em phục vụ truyền giáo và kết hôn trong đền thờ. Ông thực sự yêu đời---và chúng ta cũng nên như thế.
Cách đây vài năm, Chủ Tịch Monson đã dự định sẽ làm lễ cung hiến Đền Thờ Oquirrh Mountain vào ngày sinh nhật của mình. Khi ông đến đền thờ và đi về phía cửa trước của đền thờ, thì đã có một nhóm thanh thiếu niên quy tụ lại. Rõ ràng là họ đã biết ngày đó là ngày sinh nhật của Chủ Tịch Monson, vì họ bắt đầu hát bài ″Chúc mừng sinh nhật″ cho ông. Ông thích bài hát đó. Ông ngừng lại và đứng đối diện họ với một nụ cười tươi. Ông còn bắt đầu vẫy đôi cánh tay, như thể ông đang hướng dẫn nhạc cho họ hát. Cuối cùng họ thêm vào điệp khúc ″Và còn thêm nhiều sinh nhật nữa.″ Chủ Tịch Monson cũng thích phần đó nữa, vì ông nói: ″Đó là phần ưa thích của tôi."
Trẻ em và những người trẻ tuổi của Giáo Hội đều yêu mến ông, và tôi nghĩ rằng đó là vì họ tin rằng ông yêu thương họ! Chúa Giê Su yêu thương trẻ nhỏ, và vị tiên tri của Ngài yêu thương các trẻ nhỏ. Đó là một tấm gương tuyệt vời đối với mỗi người chúng ta!
Thứ ba, chúng ta có thể tuân theo những thúc giục của Thánh Linh, giống như Chủ Tịch Monson.
Lòng tận tụy của Chủ Tịch Monson đối với Chúa và sự cam kết của ông để tuân theo những thúc giục của Thánh Linh đã được chính vị tiên tri phát biểu một cách tuyệt vời bằng những lời này: ″Kinh nghiệm tuyệt vời nhất mà tôi biết trong cuộc sống là việc cảm thấy một thúc giục và hành động theo thúc giục đó, và về sau biết được rằng việc đó đã đáp ứng lời cầu nguyện hoặc nhu cầu của một người nào đó. Và tôi luôn luôn muốn Chúa biết rằng nếu Ngài cần một người chạy lo công việc của Ngài, thì Tom Monson sẽ chạy lo công việc đó cho Ngài″ ” (On the Lord’s Errand [DVD, 2008]). Đó là một mẫu mực mà mỗi chúng ta nên muốn noi theo.
Thứ tư, chúng ta có thể yêu mến đền thờ, như Chủ Tịch Monson yêu mến đền thờ.
Chủ Tịch Monson sẽ được ghi lại vào lịch sử như là một trong những người tích cực xây cất đền thờ trong lịch sử của Giáo Hội. Kể từ khi trở thành Chủ Tịch của Giáo Hội vào tháng Hai năm 2008, ông đã tiếp tục công việc vĩ đại xây cất đền thờ. Một số đền thờ mà ông loan báo đều mang tính chất lịch sử nhất: ″Buổi sáng hôm nay, tôi hân hạnh thông báo năm ngôi đền thờ mới mà địa điểm đã kiếm được và, trong những năm tháng tới, sẽ được xây cất trong những địa điểm sau đây: Calgary, Alberta, Canada; Córdoba, Argentina; khu vực Kansas City; Philadelphia, Pennsylvania; và Rome, Ý″ (Thomas S. Monson, ″Xin Chào Mừng Các Anh Chị Em Đến Tham Dự Đại Hội,″ Ensign hoặc Liahona, tháng 11 năm 2008, 6).
Trong năm năm làm tiên tri, Chủ Tịch Monson đã loan báo kế hoạch xây cất 33 ngôi đền thờ mới. Chỉ mới tháng trước trong đại hội tháng Tư, ông đã loan báo kế hoạch cho hai ngôi đền thờ mới: một ở Cedar City, Utah, và một ở Rio de Janeiro, Brazil.
Với lễ cung hiến Đền Thờ Tegucigalpa Honduras vào tháng Ba, chúng ta hiện có 141 đền thờ trong Giáo Hội, với thêm 29 ngôi đền thờ khác đang được xây cất hoặc trong giai đoạn hoạch định. Đây là một thời gian tuyệt vời của việc xây cất đền thờ và thờ phượng trong đền thờ trong Giáo Hội của Chúa. Tôi đã nghe Chủ Tịch Monson nói với những người trẻ tuổi còn quá nhỏ để vào đền thờ hãy đi lên và chạm tay vào bức tường của đền thờ và sau đó ″để cho đền thờ chạm vào các em.″
Chủ Tịch Monson đã nói: “Cầu xin cho mỗi người chúng ta sống cuộc sống xứng đáng với bàn tay trong sạch và tấm lòng thanh khiết để cho đền thờ có thể ảnh hưởng đến cuộc sống và gia đình của chúng ta” (“Các Phước Lành của Đền Thờ,” Liahona, tháng Mười năm 2010, 19).
Rồi ông cũng đưa ra lời hứa tuyệt vời này: “Khi chúng ta yêu mến đền thờ, chạm tay vào đền thờ và tham dự đền thờ, thì cuộc sống của chúng ta sẽ phản ảnh đức tin của chúng ta. Khi chúng ta đến các ngôi nhà thánh này của Thượng Đế, khi chúng ta nhớ các giao ước chúng ta lập ở bên trong đó, thì chúng ta sẽ có thể chịu đựng mọi thử thách và khắc phục mỗi cám dỗ″ (Be Your Best Self [1979], 56; sự nhấn mạnh được thêm vào).
Chúng ta hãy noi theo mẫu mực mà vị tiên tri đã nêu ra cho chúng ta trong tình yêu mến đền thờ.
Thứ năm, chúng ta có thể tử tế, ân cần, và yêu thương những người khác, như Chủ Tịch Monson đã làm.
Chủ Tịch Monson là một tấm gương yêu thương tuyệt vời những người khác. Toàn bộ giáo vụ của ông đã tràn đầy những chuyến đi thăm các gia đình, đặt tay lên trên đầu và ban cho phước lành, bất ngờ gọi điện thoại để an ủi và khuyến khích, gửi thư khuyến khích, khen ngợi và cám ơn, đi thăm các bệnh viện và các trung tâm chăm sóc, và tìm ra thời gian để tham dự tang lễ và đến viếng xác mặc dù lịch trình của ông rất bận rộn.
Tôi đã đề cập trước đây về 84 góa phụ từ tiểu giáo khu của Chủ Tịch Monson khi ông là giám trợ ở đó. Trong những thập niên tiếp theo sau sự phục vụ của ông với tư cách là giám trợ, trong một biểu hiện đầy ngạc nhiên về lòng tận tụy, đã kết hợp với kết quả của nhiều lời cầu nguyện của họ, Chủ Tịch Monson đã có thể tham dự tang lễ của mỗi người trong số họ. Hãy thử nghĩ về điều đó.
Cũng giống như Đấng Cứu Rỗi sẽ làm, Thomas Monson đã đi khắp nơi làm phước, ban phước và yêu thương những người khác như thể đó là động lực trong cuộc sống của ông. Chúng ta đều có thể học hỏi từ điều này khi chúng ta đi theo bước chân ông.
Một ví dụ đáng kể về lòng nhân từ của Chủ Tịch Monson đã xảy ra năm ngoái. Khi Đền Thờ Brigham City Utah tuyệt đẹp gần hoàn tất, tôi đã họp với Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn để thảo luận các kế hoạch cho lễ cung hiến đền thờ. Vì Brigham City chỉ nằm cách Salt Lake City có một giờ đồng hồ về phía bắc, nên sẽ rất dễ dàng để Chủ Tịch Monson đi đến đó để dự lễ cung hiến. Thay vì thế, Chủ Tịch Monson nói: ″Brigham City là quê hương của Chủ Tịch Boyd K. Packer, Vị Sứ Đồ vĩ đại này đã ngồi bên cạnh tôi trong nhiều năm trong Nhóm Túc Số Mười Hai. Tôi muốn ông ấy có vinh dự và phước lành để làm lễ cung hiến đền thờ ở thành phố quê hương ông. Tôi sẽ ở lại, và tôi sẽ chỉ định Chủ Tịch Packer làm lễ cung hiến Đền Thờ Brigham City. Tôi muốn đó là ngày đặc biệt của ông ấy.″
Đó là một ngày tuyệt vời đối với Chủ Tịch và Chị Packer, bà cũng là người lớn lên ở Brigham City. Tôi rất cảm động trước cử chỉ nhân từ và cao thượng của Chủ Tịch Monson đối với Vị cùng Sứ Đồ với ông. Tất cả chúng ta cũng đều có thể giống như vậy. Chúng ta có thể chia sẻ và đối xử tử tế và không nghĩ quá nhiều đến bản thân mình---mà hãy nghĩ nhiều hơn đến những người xung quanh mình.
Tôi thích bài hát của trẻ em ″Hãy Tuân Theo Vị Tiên Tri.″ Bài hát này có chín câu tuyệt hay, nhưng tôi chỉ có thời giờ để đọc câu cuối cùng:
Bây giờ chúng ta có một thế giới trong đó mọi người đều đang hoang mang.
Nếu bạn không tin thì hãy đi xem tin tức.
Chúng ta có thể nhận được sự hướng dẫn suốt cuộc sống của mình,
Nếu chúng ta lưu tâm đến các vị tiên tri---làm theo những gì họ nói.
… … … … … … … … … .
Hãy tuân theo vị tiên tri; không đi lạc lối.
… … … … … … … … … .
Hãy tuân theo vị tiên tri; ông biết con đường.
(Children’s Songbook, 111)
Quả thực, Chủ Tịch Monson biết con đường. Con đường đúng là con đường của Chúa. “Con đường ngay chính tức là tin nơi Đấng Ky Tô” (2 Nê Phi 25:29).
Chủ Tịch Monson đã dạy chúng ta cách để sống cuộc sống của mình với những sứ điệp tuyệt vời và đầy soi dẫn của ông tại đại hội trung ương. Ông đã dạy chúng ta cách để làm tín đồ của Chúa Giê Su Ky Tô bằng tấm gương cá nhân phi thường và tuyệt vời của ông. Quả thật Chúa đã ban cho chúng ta một mẫu mực trong tất cả mọi thứ, và một trong các mẫu mực mà chúng ta nên tìm cách tuân theo là mẫu mực của vị tiên tri yêu dấu của chúng ta.
Tôi làm chứng rằng có một Thuợng Đế ở trên trời biết chúng ta và yêu thương chúng ta. Ngài đã ban cho chúng ta một vị tiên tri---để hướng dẫn, giảng dạy, và hướng dẫn chúng ta trong những ngày sau này. Tôi làm chứng rằng Chúa Giê Su Ky Tô là Vị nam Tử của Thượng Đế và là Đấng Cứu Rỗi của thế gian này. Tôi tin rằng Chúa trông mong chúng ta phải yêu mến vị tiên tri, tán trợ ông và noi theo gương của ông.
Chúng con thật sự tạ ơn Ngài, ôi Thượng Đế, đã ban cho một vị tiên tri. Chúng con tạ ơn Ngài về vị tiên tri này. Tôi xem đó là một phước lành tuyệt vời để được sống trong thời kỳ mà Thomas S. Monson là vị tiên tri của Chúa. Khi tuân theo vị tiên tri và cố gắng để được giống như ông hơn, chúng ta chắc chắn sẽ thành công hơn trong việc làm các môn đồ trung tín của Chúa Giê Su Ky Tô.
Thật là một vinh dự để được ngỏ lời với các em buổi tối hôm nay, và tôi cầu nguyện Chúa sẽ ban phước dồi dào cho mỗi em, khi tôi làm chứng rằng đây là công việc của Chúa, trong tôn danh của Chúa Giê Su Ky Tô, A Men.
©2013 do Intellectual Reserve, Inc. Giữ mọi bản quyền. Bản Anh ngữ chuẩn nhận 9/12. Bản dịch chuẩn nhận: 9/12. Bản dịch Our Prophet: Thomas S. Monson. Vietnamese. PD50046139 435