2018
Chương 3: Các Bảng Khắc bằng Vàng
April 2018


Chương 3

Các Bảng Khắc bằng Vàng

Đây là chương 3 của cuốn sách bốn tập tường thuật về lịch sử của Giáo Hội Các Thánh Hữu: Câu Chuyện về Giáo Hội của Chúa Giê Su Ky Tô trong Những Ngày Sau. Sách sẽ có sẵn trong 14 ngôn ngữ dưới dạng bản in, trong phần Lịch Sử Giáo Hội của ứng dụng Thư Viện Phúc Âm, và trực tuyến tại thanhhuu.lds.org. Các chương kế tiếp sẽ được đăng trên các số báo sắp tới cho đến khi tập 1 được phát hành vào cuối năm nay. Các chương này sẽ có sẵn trong 47 ngôn ngữ trong ứng dụng Thư Viện Phúc Âm và tại thanhhuu.lds.org. Chương 2 mô tả Khải Tượng Thứ Nhất của Joseph—trông thấy Đức Chúa Cha và Vị Nam Tử vào mùa xuân năm 1820.

hill cumorah line drawing
Moroni appearing

He Called Me by Name (Ông Gọi Tên Tôi), tranh do Michael Malm họa

Ba năm trôi qua, và ba mùa gặt. Joseph dành ra hầu hết thời gian phá hoang, cày xới đất đai, và làm công nhân trong nông trại để kiếm tiền giúp gia đình mình trả góp cho cơ ngơi của gia đình. Công việc như vậy không cho phép cậu đi học thường xuyên, và cậu dành ra hầu hết thời gian rảnh rỗi với gia đình hoặc các công nhân khác.

Joseph và bạn bè của cậu đều còn non nớt và vô tư. Đôi khi họ mắc phải những lỗi lầm dại dột, và Joseph thấy rằng được tha thứ một lần không có nghĩa là cậu sẽ không bao giờ phải hối cải lần nữa. Cũng như khải tượng vinh quang của cậu đã không giải đáp mọi câu hỏi hoặc vĩnh viễn chấm dứt cảm giác mơ hồ của cậu.1 Vì thế cậu đã cố gắng gần gũi với Thượng Đế. Cậu đọc Kinh Thánh, tin cậy vào quyền năng của Chúa Giê Su Ky Tô để giải cứu cậu, và vâng theo lệnh truyền của Chúa là không gia nhập bất cứ giáo phái nào.

Giống như nhiều người trong vùng, kể cả cha cậu, Joseph tin rằng Thượng Đế có thể mặc khải sự hiểu biết qua các đồ vật như gậy và đá, như Ngài đã làm như vậy với Môi Se, A Rôn, và các vị khác trong Kinh Thánh.2 Một ngày kia, trong khi Joseph đang giúp một người hàng xóm đào giếng, cậu tình cờ thấy một viên đá nhỏ bị vùi sâu dưới lòng đất. Biết rằng con người đôi khi sử dụng những viên đá đặc biệt để tìm kiếm những đồ vật bị thất lạc hoặc kho tàng chôn giấu, Joseph tự hỏi liệu mình đã tìm được một viên đá như vậy không. Khi nhìn vào viên đá đó, cậu thấy những sự việc mà không thể thấy được bằng con mắt trần.3

Ân tứ của Joseph trong việc sử dụng viên đá đã để lại ấn tượng nơi mọi người trong gia đình, là những người thấy đó là một dấu hiệu của đặc ân thiêng liêng.4 Nhưng mặc dù cậu có ân tứ tiên kiến, Joseph vẫn không chắc Thượng Đế có hài lòng với cậu không. Cậu không còn có thể cảm thấy sự tha thứ và bình an mà cậu đã cảm thấy sau khải tượng của mình về Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Thay vì thế, cậu thường cảm thấy bị chỉ trích vì những điều yếu kém và không hoàn hảo của mình.5

Vào ngày 21 tháng Chín năm 1823, thiếu niên Joseph mười bảy tuổi đang còn thao thức chưa ngủ trong căn phòng trên gác mà cậu ở chung với các em trai của mình. Cậu đã thức khuya tối hôm đó, lắng nghe gia đình cậu nói về các giáo phái khác nhau và các giáo lý mà họ giảng dạy. Bây giờ mọi người đều ngủ cả, và căn nhà thật yên tĩnh.6

Trong bóng tối của căn phòng mình, Joseph bắt đầu cầu nguyện, tha thiết khẩn cầu rằng Thượng Đế sẽ tha thứ cho các tội lỗi của cậu. Cậu mong mỏi được trò chuyện với vị sứ giả từ thiên thượng mà có thể bảo đảm với cậu về vị trí của cậu trước Chúa và cho cậu một sự hiểu biết về phúc âm mà cậu đã được hứa trong khu rừng. Joseph biết Thượng Đế đã đáp ứng lời cầu nguyện của cậu trước đây rồi, và cậu hoàn toàn tin tưởng rằng Ngài sẽ đáp ứng một lần nữa.

Trong khi Joseph cầu nguyện, một ánh sáng hiện ra bên giường cậu và ánh sáng đó càng lúc càng sáng tỏa và rực rỡ hơn, cho đến khi ánh sáng đó chan hòa khắp căn phòng. Joseph nhìn lên và thấy một thiên sứ đứng lơ lửng trên không trung. Vị thiên sứ mặc một chiếc áo màu trắng dài đến tận cổ tay và mắt cá chân. Ánh sáng tỏa ra từ vị ấy, và khuôn mặt vị ấy sáng rực như chớp vậy.

Lúc đầu Joseph rất sợ hãi, nhưng cậu nhanh chóng cảm thấy bình an. Vị thiên sứ gọi tên cậu và giới thiệu tên vị ấy là Mô Rô Ni. Vị ấy nói rằng Thượng Đế đã tha thứ cho Joseph về các tội lỗi của cậu và bây giờ có công việc giao cho cậu thực hiện. Vị ấy tuyên bố rằng tên của Joseph sẽ được nhắc tới như điều thiện và điều ác trong khắp mọi dân tộc.7

Mô Rô Ni nói về các bảng khắc bằng vàng được chôn giấu ở một ngọn đồi gần đó. Trên các bảng khắc này có ghi khắc biên sử của một dân tộc cổ xưa mà đã từng sống ở Châu Mỹ. Biên sử này cho biết về nguồn gốc của họ và kể về một câu chuyện khi Chúa Giê Su Ky Tô đến viếng thăm họ và giảng dạy phúc âm trọn vẹn của Ngài.8 Mô Rô Ni nói rằng các bảng khắc này được chôn giấu cùng với hai viên đá tiên kiến, mà về sau Joseph gọi là U Rim và Thu Mim, hoặc các viên đá phiên dịch. Chúa đã chuẩn bị các viên đá đó để giúp Joseph phiên dịch biên sử này. Các viên đá trong suốt đó được gắn chặt với nhau và buộc vào một tấm giáp che ngực.9

Trong thời gian còn lại của lần viếng thăm, Mô Rô Ni trích dẫn những lời tiên tri từ các sách trong Kinh Thánh của Ê Sai, Giô Ên, Ma La Chi, và Công Vụ Các Sứ Đồ. Ông giải thích rằng Chúa sẽ sớm đến, và gia đình nhân loại sẽ không làm tròn mục đích của sự sáng tạo của họ trừ khi giao ước cổ xưa của Thượng Đế được tái lập trước tiên.10 Mô Rô Ni nói rằng Thượng Đế đã chọn Joseph để tái lập giao ước đó, và rằng nếu cậu chọn để trung tín với các lệnh truyền của Thượng Đế, thì cậu sẽ là người tiết lộ biên sử trên các bảng khắc.11

Trước khi rời đi, vị thiên sứ đã truyền lệnh cho Joseph phải gìn giữ các bảng khắc và không được cho ai thấy ngoại trừ khi được chỉ dẫn, cảnh cáo cậu rằng cậu sẽ bị hủy diệt nếu cậu không vâng theo lời khuyên này. Sau đó ánh sáng bao quanh Mô Rô Ni và ông thăng lên trời.12

Khi Joseph còn đang nằm suy nghĩ về khải tượng vừa qua, ánh sáng lại tỏa khắp căn phòng và Mô Rô Ni lại hiện ra, ban cho cùng một sứ điệp như lúc trước. Rồi sau đó ông rời đi, chỉ hiện ra thêm một lần nữa và đưa ra sứ điệp của ông lần thứ ba.

Ông nói: “Joseph, giờ đây con hãy cảnh giác. Khi con đi lấy các bảng khắc, tâm trí con sẽ đầy tăm tối, và tất cả mọi thể loại tà ác sẽ tràn vào tâm trí con nhằm ngăn chặn không cho con tuân giữ các lệnh truyền của Thượng Đế.” Trong khi hướng Joseph đến một người mà có thể hỗ trợ cậu, Mô Rô Ni khuyến khích cậu nên nói cho cha cậu biết về các khải tượng của mình.

Vị thiên sứ hứa rằng: “Ông ấy sẽ tin vào mỗi lời con nói.”13

Sáng hôm sau, Joseph không nói gì cả về Mô Rô Ni, mặc dù cậu biết rằng cha cậu cũng tin tưởng vào những khải tượng và các thiên sứ. Thay vì thế, họ dành ra cả buổi sáng thu hoạch cánh đồng cạnh bên cùng với Alvin.

Công việc rất nặng nhọc. Joseph cố gắng làm kịp anh của mình khi họ vung lưỡi hái tới lui xuyên qua những cây lúa cao. Nhưng những lần viếng thăm của Mô Rô Ni đã làm cho cậu thức trắng đêm, và cậu cứ tiếp tục nghĩ tới biên sử cổ xưa và ngọn đồi nơi chôn giấu biên sử đó.

Chẳng mấy chốc cậu ngừng làm việc, và Alvin nhận thấy điều đó. Anh ấy gọi Joseph: “Chúng ta phải tiếp tục làm việc, nếu không chúng ta sẽ không làm xong nhiệm vụ của mình.”14

Joseph cố gắng làm việc chăm chỉ hơn và nhanh hơn, nhưng bất kể cậu đã làm thế nào đi nữa, cậu không tài nào đuổi kịp Alvin. Sau một lúc, Joseph Cha nhận thấy rằng Joseph trông xanh xao và lại ngừng làm việc. Ông nói: “Con về nhà đi,” nghĩ rằng con mình đang bệnh.

Joseph vâng lời cha mình và loạng choạng bước về nhà. Nhưng khi đang cố gắng bước qua hàng rào, thì cậu ngã quỵ xuống đất, người kiệt sức.

Trong khi đang nằm ở đó, cố lấy lại sức, một lần nữa cậu lại thấy Mô Rô Ni đang đứng ở trên cậu, bao quanh bởi ánh sáng. Ông hỏi: “Tại sao con không nói cho cha con biết như ta bảo?”

Joseph đáp rằng cậu sợ cha cậu sẽ không tin mình.

Mô Rô Ni đảm bảo với cậu rằng: “Ông ấy sẽ tin,” rồi sau đó lặp lại sứ điệp từ đêm hôm trước.15

Joseph Cha đã khóc khi con trai ông nói cho ông biết về vị thiên sứ và sứ điệp của vị ấy. Ông nói: “Đó là một khải tượng từ Thượng Đế. Con hãy tuân theo.”16

Hill Cumorah

Ảnh chụp từ trên cao Đồi Cumorah và vùng phụ cận do Craig Dimond thực hiện

Joseph lập tức đi đến ngọn đồi. Trong đêm, Mô Rô Ni đã cho cậu thấy một khải tượng về nơi chôn giấu các bảng khắc, vậy nên cậu đã biết phải đi đâu. Ngọn đồi đó, một trong những quả đồi lớn nhất trong vùng, nằm cách nhà cậu khoảng ba dặm (5 km). Các bảng khắc được chôn vùi ở dưới một tảng đá lớn, hình tròn nằm ở phía tây của ngọn đồi.

Joseph vừa đi vừa nghĩ về các bảng khắc. Mặc dù cậu biết rằng chúng rất thiêng liêng, thật là khó đối với cậu để kiềm chế không tự hỏi về giá trị của các bảng khắc này. Cậu đã nghe những truyện cổ tích về kho tàng ẩn giấu được các linh hồn vệ binh bảo vệ, nhưng Mô Rô Ni và các bảng khắc ông mô tả thì khác với những câu chuyện này. Mô Rô Ni là một sứ giả từ thiên thượng được Thượng Đế chỉ định mang biên sử đến cho vị tiên kiến mà Ngài đã chọn. Và các bảng khắc có giá trị không phải vì chúng được làm bằng vàng, mà bởi vì chúng làm chứng về Chúa Giê Su Ky Tô.

Tuy vậy, Joseph vẫn không thể cưỡng lại ý nghĩ rằng giờ đây cậu đã biết chính xác phải tìm ra kho báu ở đâu để giải thoát gia đình ra khỏi cảnh nghèo túng.17

Khi tới ngọn đồi, Joseph tìm được đúng nơi mà cậu đã thấy trong khải tượng và bắt đầu đào ở chân của tảng đá cho đến khi các cạnh của tảng đá lộ rõ ra. Rồi cậu tìm thấy một cành cây to và sử dụng nó để làm đòn bẩy để nâng tảng đá lên và cố đẩy sang một bên.18

Dưới tảng đá là một cái hộp, đáy và cạnh của hộp đều làm bằng đá. Nhìn vào bên trong, Joseph thấy các bảng khắc bằng vàng, các viên đá tiên kiến, và tấm giáp che ngực.19 Các bảng khắc đều có đầy những chữ viết cổ xưa và gắn với nhau ở một bên bằng ba vòng. Mỗi bảng rộng khoảng sáu inch (15 cm), dài khoảng tám inch (20 cm), và mỏng. Một phần của các bảng khắc dường như cũng được niêm phong để không ai có thể đọc được.20

Vô cùng kinh ngạc, Joseph lại vẫn tự hỏi về giá trị của các bảng khắc này. Cậu giơ tay với lấy các bảng khắc—và cảm thấy một cái giật xuyên thấu cơ thể. Cậu giật tay lại nhưng rồi lại với lấy các bảng khắc thêm hai lần nữa và mỗi lần đều bị giật.

Cậu hét lên: “Tại sao mình không lấy được cuốn sách này chứ?”

Một tiếng nói gần đó vang lên: “Bởi vì con chưa tuân giữ các lệnh truyền của Chúa.”21

Joseph quay ra và thấy Mô Rô Ni. Ngay lập tức sứ điệp từ buổi tối hôm trước ùa vào tâm trí cậu, và cậu hiểu rằng mình đã quên mất mục đích thực sự của biên sử này. Cậu bắt đầu cầu nguyện, và tâm trí và tâm hồn của cậu thức tỉnh bởi Thánh Linh.

Mô Rô Ni truyền lệnh: “Hãy nhìn kìa”. Một khải tượng khác mở ra trước mắt Joseph, và cậu thấy Sa Tan được vây quanh bởi vô số đội quân của nó. Vị thiên sứ tuyên bố: “Tất cả những điều này được cho thấy, điều tốt và điều xấu, điều thánh thiện và điều ô uế, vinh quang của Thượng Đế và quyền năng của bóng tối, để con có thể biết sự khác biệt giữa hai quyền năng này và đừng bao giờ bị chi phối hoặc bị đánh bại bởi quyền năng tà ác đó.”

Ông chỉ dẫn Joseph hãy có tấm lòng trong sạch và củng cố tâm trí để nhận được biên sử. Mô Rô Ni giải thích: “Các vật thiêng liêng này chỉ có thể được lấy ra bằng sự cầu nguyện và trung tín vâng lời Chúa”. Chúng không được đặt ở đây vì lý do kiếm lời và sự giàu sang cho vinh quang của thế gian. Các bảng khắc này được đóng ấn nhờ sự cầu nguyện bởi đức tin.”22

Joseph hỏi khi nào cậu có thể có được các bảng khắc.

Mô Rô Ni đáp: “Ngày hai mươi hai tháng Chín năm sau, nếu con mang theo đúng người.”

“Ai là người đó?” Joseph hỏi.

“Người anh cả của con.”23

Ngay từ khi còn bé, Joseph đã biết cậu có thể trông cậy vào người anh cả của mình. Alvin nay đã 25 tuổi và có thể có một nông trại riêng nếu anh ấy muốn. Nhưng anh ấy đã chọn ở lại trang trại của gia đình để giúp cha mẹ mình ổn định cuộc sống và bảo đảm đất đai của họ khi họ lớn tuổi hơn. Anh ấy rất chín chắn và làm việc siêng năng, và Joseph yêu mến và thán phục anh ấy rất nhiều.24

Có lẽ Mô Rô Ni cảm thấy rằng Joseph cần đến sự hiểu biết và sức mạnh của anh trai cậu để trở thành con người mà Chúa có thể tin cậy với các bảng khắc.

Joseph rất mệt mỏi khi trở về nhà tối hôm ấy. Nhưng gia đình cậu vây quanh cậu ngay khi cậu bước vào nhà, mong mỏi muốn biết điều cậu tìm thấy ở ngọn đồi. Joseph bắt đầu nói cho họ về các bảng khắc, nhưng Alvin ngắt lời cậu khi anh ấy nhận thấy Joseph trông mệt mỏi đến mức nào.

Anh ấy nói: “Chúng ta đi ngủ thôi, và sẽ dậy thật sớm sáng hôm sau để đi làm việc.” Họ sẽ có nhiều thời gian ngày mai để nghe hết câu chuyện của Joseph. Anh ấy nói: “Nếu Mẹ sẽ dọn bữa tối cho chúng ta thật sớm, thì chúng ta sẽ có một buổi tối dài để ngồi xuống và nghe em kể.”25

Buổi tối hôm sau, Joseph chia sẻ điều đã xảy ra ở ngọn đồi, và Alvin tin lời cậu. Là con trai cả trong gia đình, Alvin luôn luôn cảm thấy có trách nhiệm đối với sự an lạc về mặt vật chất của cha mẹ đang càng ngày càng lớn tuổi của mình. Anh ấy cùng với các em trai của mình thậm chí đã bắt đầu xây một căn nhà to hơn cho gia đình để họ có thể cảm thấy thoải mái hơn.

Giờ đây dường như Joseph đang chăm lo cho sự an lạc về phần thuộc linh của họ. Hằng đêm, cậu làm cho gia đình mình say mê với cuộc trò chuyện về các bảng khắc bằng vàng và những người đã viết các bảng khắc đó. Gia đình gần gũi với nhau hơn, và họ cảm thấy bình an và hạnh phúc. Mọi người đều cảm thấy một điều gì đó tuyệt vời đang sắp xảy ra.26

Một buổi sáng mùa thu, chưa đầy hai tháng sau lần viếng thăm của Mô Rô Ni, Alvin về nhà với một cơn đau dữ dội ở dạ dày. Người gập lại vì đau đớn, anh cầu xin cha mình gọi người đến cứu giúp. Cuối cùng khi bác sĩ tới, ông ta cho Alvin một liều mạnh loại thuốc có đá phấn, nhưng chỉ làm cho bệnh càng nặng hơn.

Alvin nằm trên giường trong nhiều ngày, quằn quại vì đau đớn. Vì biết rằng mình có thể sẽ chết, anh ấy gọi Joseph đến. Alvin nói: “Em hãy làm mọi việc trong vòng khả năng của em để có được các biên sử đó. Hãy trung tín trong việc nhận được lời chỉ dẫn, và tuân giữ mọi lệnh truyền được ban cho em.”27

Chẳng bao lâu sau đó, anh ấy qua đời, và nỗi buồn thảm bao trùm căn nhà. Tại tang lễ, vị giám mục chẳng nói gì khác ngoài việc Alvin đã đi đến địa ngục, sử dụng cái chết của anh ấy để cảnh báo người khác về điều sẽ xảy ra trừ khi Thượng Đế can thiệp để giải cứu họ. Joseph Cha rất giận dữ. Con trai ông luôn là một thanh niên ngoan ngoãn, và ông không thể tin nổi rằng Thượng Đế sẽ kết tội con mình.28

Với sự ra đi của Alvin, cuộc trò chuyện về các bảng khắc chấm dứt. Anh ấy đã là một người ủng hộ trung thành cho sự kêu gọi thiêng liêng của Joseph đến mức bất cứ ai nhắc tới các bảng khắc đều khiến mọi người nghĩ đến cái chết của anh ấy. Gia đình không thể nào chịu đựng nổi điều đó.

Joseph nhớ Alvin khủng khiếp và cái chết của anh ấy đặc biệt rất khó khăn đối với cậu. Cậu đã hy vọng trông cậy vào người anh cả của mình để giúp cậu lấy được biên sử. Bây giờ cậu cảm thấy bị bỏ rơi.29

statue of Moroni

Bức tượng Mô Rô Ni được đặt trên đỉnh Đồi Cumorah để kỷ niệm nơi Joseph Smith lần đầu tiên thấy các bảng khắc Sách Mặc Môn vào ngày 22 tháng Chín năm 1823, và lấy được các bảng khắc đó đúng bốn năm sau.

Cuối cùng đã đến lúc cậu phải trở lại ngọn đồi, Joseph đã đi một mình. Không có Alvin, cậu không chắc Chúa sẽ tin cậy cậu với các bảng khắc. Nhưng cậu nghĩ cậu đã có thể giữ mọi lệnh truyền Chúa ban cho cậu, như anh cậu đã khuyên bảo. Những lời chỉ dẫn của Mô Rô Ni để lấy các bảng khắc thật là rõ ràng. Vị thiên sứ đã nói: “Con phải cầm các bảng khắc đó trên tay và đi thẳng về nhà không một chút chần chừ nào, và khóa chúng lại.”30

Tại ngọn đồi, Joseph bẩy tảng đá lên, thò tay vào cái hộp bằng đá, và lấy ra các bảng khắc. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong tâm trí cậu: các vật khác trong hộp cũng đều có giá trị và cần phải được chôn giấu trước khi cậu về nhà. Cậu đặt các bảng khắc xuống và quay lại để che giấu cái hộp. Nhưng khi cậu trở lại chỗ các bảng khắc, chúng đã biến mất. Quá đỗi sợ hãi, cậu quỳ xuống và khẩn cầu để biết các bảng khắc đó ở đâu.

Mô Rô Ni hiện ra và nói cho Joseph biết rằng một lần nữa cậu đã không tuân theo các chỉ dẫn. Cậu không chỉ đặt các bảng khắc xuống trước khi chắn chắn là chúng được an toàn, mà cậu còn để các bảng khắc này khuất khỏi mắt mình. Mặc dù vị tiên kiến trẻ tuổi này đã sẵn sàng làm công việc của Chúa, nhưng cậu chưa thể bảo vệ được biên sử cổ xưa.

Joseph rất thất vọng với bản thân, nhưng Mô Rô Ni chỉ dẫn ông hãy trở lại lấy các bảng khắc vào năm sau. Ông cũng dạy cậu về kế hoạch của Chúa cho vương quốc của Thượng Đế và công việc vĩ đại đang bắt đầu được triển khai.

Sau khi vị thiên sứ rời đi, Joseph buồn bã đi bộ xuống đồi, lo lắng về điều gia đình cậu sẽ nghĩ khi cậu trở về nhà với bàn tay trắng.31 Khi cậu bước vào nhà, họ đang chờ cậu. Cha cậu hỏi ngay lập tức xem cậu có được các bảng khắc chưa.

Cậu nói: “Chưa. Con không thể lấy được các bảng khắc đó.”

“Con có thấy các bảng khắc đó không?”

“Con thấy chúng nhưng không thể lấy được.”

Joseph Cha nói: “Nếu Cha ở vào vị trí của con, thì Cha sẽ lấy các bảng khắc đó.”

Joseph nói: “Cha không biết là Cha đang nói gì đâu. Con không thể lấy được chúng, vì thiên sứ của Chúa không cho phép con lấy.”32

Ghi Chú

  1. Joseph Smith History, 1838–1856, tập A-1, trang 4–5, trong JSP, H1:220 (bản thảo 2); Joseph Smith History, circa Summer 1832, 1, trong JSP, H1:11.

  2. “Joseph Smith as Revelator and Translator,” trong JSP, MRB:xxi; Turley, Jensen, và Ashurst-McGee, “Joseph the Seer,” trang 49–50; xin xem thêm Mô Si A 8:17; An Ma 37:6–7, 41; và Giáo Lý và Giao Ước 10:1, 4 (Revelation, Spring 1829, tại josephsmithpapers.org).

  3. Bushman, Rough Stone Rolling, trang 48–49; Bushman, “Joseph Smith as Translator,” trang 242. Đề Tài: Các Viên Đá Tiên Kiến

  4. Lucy Mack Smith, History, 1845, trang 95; xin xem thêm An Ma 37:23.

  5. Joseph Smith History, circa Summer 1832, 4, trong JSP, J1:13; Joseph Smith—Lịch Sử 1:28–29; Joseph Smith History, năm 1838–1856, tập A-1, trang 5, trong JSP, H1:218 (bản thảo 2).

  6. Lucy Mack Smith, History, năm 1844–1845, quyển 3, [10].

  7. Joseph Smith History, circa Summer 1832, 4, trong JSP, H1:13–14; Joseph Smith—Lịch Sử 1:29–33; Joseph Smith History, 1838–1856, tập A-1, 5, trong JSP, H1:218–22 (bản thảo 2); Pratt, Interesting Account, 6, trong JSP, H1:524; Hyde, Ein Ruf aus der Wüste, trang 17–20. Đề Tài: Thiên Sứ Mô Rô Ni

  8. Joseph Smith, Journal, ngày 9–11 tháng Mười Một năm 1835, trong JSP, J1:88.

  9. Joseph Smith—Lịch Sử 1:35; Joseph Smith History, 1838–1856, tập A-1, 5, trong JSP, H1:222 (bản thảo 2); Joseph Smith History, circa Summer 1832, 4, trong JSP, H1:14; Oliver Cowdery, “Letter IV,” LDS Messenger and Advocate, tháng Hai năm 1835, 1:65–67; Turley, Jensen, và Ashurst-McGee, “Joseph the Seer,” trang 49–54; “Mormonism—No. II,” Tiffany’s Monthly, tháng Bảy năm 1859, trang 164. Đề Tài: Các Viên Đá Tiên Kiến

  10. Joseph Smith—Lịch Sử 1:36–41; Joseph Smith History, 1838–156, tập A-1, 5–6, trong JSP, H1:222–26 (bản thảo 2); Joseph Smith, Journal, ngày 9–11 tháng Mười Một, năm 1835, trong JSP, J1:88–89.

  11. Oliver Cowdery, “Letter IV,” LDS Messenger and Advocate, tháng Hai năm 1835, 1:78–79; Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 3, [11].

  12. Joseph Smith—Lịch Sử 1:42–43; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, trang 6, trong JSP, H1:226 (bản thảo 2).

  13. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [10]–[11]; Oliver Cowdery, “Letter IV,” LDS Messenger and Advocate, tháng Hai năm 1835, 1:79–80; Oliver Cowdery, “Letter VII,” LDS Messenger and Advocate, tháng Bảy năm 1835, 1:156–57; Joseph Smith—Lịch Sử 1:44–46; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, trang 6–7, trong JSP, H1:230–32 (bản thảo 2); Joseph Smith, Journal, ngày 9–11 tháng Mười Một năm 1835, trong JSP, J1:88–89.

  14. Lucy Mack Smith, History, năm 1844–45, quyển 3, [11]; xin xem thêm Smith, William Smith on Mormonism, trang 9.

  15. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [11]; Smith, Biographical Sketches, trang 82; Joseph Smith—Lịch Sử 1:48–49; Joseph Smith History, 1838–1856, tập A-1, 7, trong JSP, H1:230–32 (bản thảo 2); Joseph Smith, Journal, ngày 9–11 tháng Mười Một năm 1835, trong JSP, J1:89.

  16. Joseph Smith, Journal, ngày 9–11 tháng Mười Một năm 1835, trong JSP, J1:89.

  17. Oliver Cowdery, “Letter VIII,” LDS Messenger and Advocate, tháng Mười năm 1835, 2:195–97. Đề Tài: Tìm Kiếm Kho Báu

  18. Oliver Cowdery, “Letter VIII,” LDS Messenger and Advocate, tháng Mười năm 1835, 2:195–97; Joseph Smith—Lịch Sử 1:51–52; Joseph Smith History, 1838–1856, tập A-1, 6–7, trong JSP, H1:230–32 (bản thảo 2); xin xem thêm Packer, “A Study of the Hill Cumorah,” trang 7–10.

  19. Joseph Smith—History 1:52; Joseph Smith History, 1838–1856, tập A-1, trang 7, trong JSP, H1:232 (bản thảo 2). Đề Tài: Các Bảng Khắc bằng Vàng

  20. Joseph Smith, “Church History,” Times and Seasons, ngày 1 tháng Ba năm 1842, 3:707, trong JSP, H1:495.

  21. Oliver Cowdery, “Letter VIII,” LDS Messenger and Advocate, tháng Mười năm 1835, 2:197–98; xin xem thêm Pratt, Interesting Account, trang 10, trong JSP, H1:527–29.

  22. Oliver Cowdery, “Letter VIII,” LDS Messenger and Advocate, tháng Mười năm 1835, 2:198–99.

  23. Knight, Reminiscences, 1; Joseph Smith, Journal, ngày 9–11 tháng Mười Một năm 1835, trong JSP, J1:89; Joseph Smith—Lịch Sử 1:53–54; Joseph Smith History, 1838–1856, tập A-1, 7, trong JSP, H1:232–34 (bản thảo 2); xin xem thêm Jessee, “Joseph Knight’s Recollection of Early Mormon History,” trang 31.

  24. Joseph Smith, Journal, ngày 23 tháng Tám năm 1842, trong JSP, J1:116–17.

  25. Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 3, [12]; quyển 4, [3]; Smith, Biographical Sketches, trang 83.

  26. Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 4, [1]–[3]; Smith, Biographical Sketches, trang 86–87; xin xem thêm Lucy Mack Smith, History, năm 1845, trang 89; và Bushman, Refinement of America, trang 425–27. Đề Tài: Gia Đình Joseph Cha Và Lucy Mack Smith

  27. Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 4, [3]–[5].

  28. Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 4, [6]–[8]; “Wm. B. Smith’s Last Statement,” Zion’s Ensign, ngày 13 tháng Một năm 1894, trang 6.

  29. Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 4, [7]; Joseph Smith, Journal, ngày 23 tháng Tám năm 1842,trong JSP, J2:116–17.

  30. Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 4, [2]–[3].

  31. Lucy Mack Smith, History, 1844–1845, quyển 4, [2]–[3]; Smith, Biographical Sketches, trang 85–86; Knight, Reminiscences, 1; Joseph Smith—Lịch Sử 1:54; Lucy Mack Smith, History, 1845, trang 88; xin xem thêm Jessee, “Joseph Knight’s Recollection of Early Mormon History,” trang 31.

  32. Smith, Biographical Sketches, trang 86.