2015
Đức Tin Không Đến Một Cách Tình Cờ mà là Do Chúng Ta Chọn
Tháng Mười Một năm 2015


Đức Tin Không Đến Một Cách Tình Cờ mà là Do Chúng Ta Chọn

Đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô là một ân tứ từ thiên thượng, chúng ta có được ân tứ đó khi chọn để tin và tìm kiếm cùng giữ chặt đức tin đó.

Đấng Cứu Rỗi đã cảm nhận được đức tin đang mạnh mẽ hay yếu đuối của những người ở xung quanh Ngài. Ngài hài lòng phán với một người: “ngươi có đức tin lớn.”1 Ngài buồn bã nói với người khác: “Hỡi kẻ ít đức tin.”2 Ngài hỏi những người khác: “Đức tin các ngươi ở đâu?”3 Và Chúa Giê Su tỏ lòng kính trọng một người khác nữa: “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta chưa hề thấy ai trong dân Y Sơ Ra Ên có đức tin lớn dường ấy.”4

Tôi tự hỏi: “Làm thế nào Đấng Cứu Rỗi thấy được đức tin của tôi?” Và buổi tối hôm nay tôi hỏi các anh em: “Làm thế nào Đấng Cứu Rỗi thấy được đức tin của các anh em?”

Đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô không phải là một thứ gì đó nhẹ lâng lâng, lơ lửng trên không trung. Đức tin không tình cờ đến với chúng ta, hoặc ở lại với chúng ta bởi quyền thừa kế. Như thánh thư có ghi, đó “là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy.”5 Đức tin phát ra một ánh sáng thuộc linh và ánh sáng đó có thể thấy rõ.6 Đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô là một ân tứ từ thiên thượng, chúng ta có được ân tứ đó khi chọn để tin7 và tìm kiếm cùng giữ chặt đức tin đó. Đức tin của các anh em phát triển mạnh hơn hoặc trở nên yếu hơn. Đức tin là một nguyên tắc về quyền năng, không những quan trọng trong cuộc sống này, mà còn trong sự tiến triển của chúng ta sau khi chết nữa.8 Bởi ân điển của Đấng Ky Tô, một ngày nào đó chúng ta sẽ được cứu nhờ vào đức tin nơi danh Ngài.9 Tương lai của đức tin của các anh em không phải là tình cờ mà là do các anh em chọn.

Đức Tin của một Thanh Niên người Brazil

Cách đây một tháng ở Brazil tôi gặp Aroldo Cavalcante. Anh ấy chịu phép báp têm lúc 21 tuổi, là tín hữu đầu tiên của Giáo Hội trong gia đình của anh ấy. Anh ấy có đức tin mãnh liệt và ngay lập tức bắt đầu chuẩn bị để đi phục vụ truyền giáo. Buồn thay, mẹ của Aroldo được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Ba tháng sau, chỉ vài ngày trước khi qua đời, bà nói chuyện với Aroldo về nỗi lo âu lớn nhất của bà: Aroldo sẽ cần phải gánh lấy tất cả trách nhiệm về hai người em gái và em trai của mình, vì không có thân bằng quyến thuộc nào sẽ giúp đỡ. Không chút do dự, anh ấy hứa với mẹ mình là sẽ làm điều ấy.

Các anh chị em gia đình Cavalcante

Ban ngày anh ấy làm việc ở một ngân hàng, và ban đêm thì đi học đại học. Anh ấy tiếp tục tuân giữ các giao ước báp têm của mình, nhưng hy vọng của anh để đi truyền giáo toàn thời gian đã tan biến rồi. Sứ mệnh của anh ấy là sẽ chăm sóc cho gia đình của mình.

Nhiều tháng sau, trong khi chuẩn bị một bài nói chuyện trong lễ Tiệc Thánh, Aroldo đọc những lời khiển trách của Sa Mu Ên nói với vua Sau Lơ: “Vả, sự vâng lời tốt hơn của tế lễ.”10 Aroldo nhận được ấn tượng phải làm một điều gì đó dường như anh không thể nào làm được là cần phải tuân theo lời kêu gọi của vị tiên tri để đi phục vụ truyền giáo. Không nản lòng trước những trở ngại trước mắt, anh ấy tiến bước với đức tin mãnh liệt.

Anh Cả Aroldo Cavalcante

Aroldo dành dụm từng đồng cruzeiro mà anh ấy có thể dành dụm được. Ở tuổi 23, anh ấy đã nhận được sự kêu gọi đi truyền giáo. Anh ấy nói với đứa em trai của mình mỗi tháng phải rút ra bao nhiêu tiền từ tài khoản của anh ấy để gia đình tiêu xài. Aroldo thấy vẫn không có đủ tiền để trả tất cả chi phí cho công việc truyền giáo và tiền để các em của mình sống, nhưng với đức tin, anh ấy đã đi vào Trung Tâm Huấn Luyện Truyền Giáo. Một tuần sau đó, anh ấy nhận được phước lành đầu tiên trong số nhiều phước lành. Ngân hàng nơi Anh Cả Cavalcante từng làm việc bất ngờ tăng gấp đôi số tiền mà anh ấy phải nhận được khi nghỉ việc. Phép lạ này, cùng với các phép lạ khác, cung cấp số thu nhập cần thiết cho công việc truyền giáo và gia đình của anh ấy trong khi anh ấy vắng nhà.

Gia đình Cavalcante ngày nay

Hai mươi năm sau, Anh Cavalcante hiện đang phục vụ với tư cách là chủ tịch của Giáo Khu Recife Brazil Boa Viagem. Nhìn lại thời gian đã qua, anh ấy nói về những ngày đó: “Trong khi cố gắng sống ngay chính, tôi cảm nhận được tình yêu thương và sự hướng dẫn của Đấng Cứu Rỗi. Đức tin của tôi tăng trưởng và cho phép tôi khắc phục nhiều thử thách.”11 Đức tin của Aroldo đã không đến một cách tình cờ mà là do anh chọn.

Trong nhiều tôn giáo Ky Tô giáo, có những người nam và người nữ với đức tin vững mạnh nơi Chúa Giê Su Ky Tô, và chúng ta kính trọng và tôn trọng họ.

Không Còn Giữ Thái Độ Trung Lập Nữa

Nhưng thưa các anh em, chúng ta đã được ban cho thêm một điều gì đó: chức tư tế của Thượng Đế, quyền năng của Thượng Đế đã được các thiên sứ phục hồi trên thế gian. Điều này làm cho các anh em khác biệt. Các anh em không còn giữ thái độ trung lập nữa. Đức tin của các anh em sẽ phát triển, không phải vì tình cờ mà vì các anh em đã chọn.

Cách chúng ta sống cuộc sống của mình sẽ củng cố hoặc làm suy yếu đức tin của chúng ta. Việc cầu nguyện, sự vâng lời, tính lương thiện, ý nghĩ và hành động thanh khiết, lòng khiêm nhường và vị tha làm gia tăng đức tin. Nếu không có những đức tính này, đức tin của chúng ta sẽ suy yếu. Tại sao Đấng Cứu Rỗi phán cùng Phi E Rơ: “Song ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn?”12 Vì có một kẻ nghịch thù rất thích hủy diệt đức tin của chúng ta! Chúng ta phải cố gắng hết sức để bảo vệ đức tin của mình.

Những Câu Hỏi Chân Thật

Việc đưa ra những câu hỏi chân thật là một phần quan trọng của việc xây đắp đức tin, và chúng ta sử dụng cả trí tuệ lẫn cảm nghĩ của mình. Chúa phán: “Ta sẽ nói trong trí của ngươi và trong tâm của ngươi.”13 Không phải tất cả các câu trả lời đều sẽ đến ngay lập tức, nhưng hầu hết các câu hỏi có thể được giải quyết qua việc chân thành nghiên cứu và tìm kiếm câu trả lời từ Thượng Đế. Khi chúng ta không thật lòng sử dụng tâm trí thì sẽ không mang lại những câu trả lời thiêng liêng. “Nếu không phải là Thánh Linh của Đức Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự trong Đức Chúa Trời.”14 Và để giúp đỡ chúng ta, Chúa Giê Su đã hứa ban cho chúng ta “một Đấng Yên Ủi khác” và gọi Ngài là “tức là Thần lẽ thật.”15

Đức tin không bao giờ đòi hỏi câu trả lời cho mỗi câu hỏi nhưng tìm kiếm sự bảo đảm và lòng can đảm để tiến bước, đôi khi thừa nhận: “Tôi không biết hết mọi điều, nhưng tôi biết đủ để tiếp tục con đường của người môn đồ.”16

Đức tin của một người nơi Chúa Giê Su Ky Tô và Sự Phục Hồi sẽ suy giảm nếu người đó để cho mình có nỗi nghi ngờ dai dẳng, và bị thúc đẩy bởi những câu trả lời của những người kém đức tin và không trung tín.17 “Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự dồ dại.”18

Ví dụ, các câu hỏi về Tiên Tri Joseph Smith không phải là mới mẻ. Những người chỉ trích đã chất vấn vị tiên tri kể từ khi công việc này bắt đầu. Đối với tất cả những người có đức tin, có sự hiểu biết về thế kỷ 21 đang thật tâm thắc mắc về các sự kiện hoặc lời phát biểu của Tiên Tri Joseph Smith cách đây gần 200 năm, thì tôi xin chia sẻ lời khuyên thân thiện này: hãy ngừng phê phán Anh Joseph! Trong tương lai, ta sẽ có thông tin nhiều hơn gấp 100 lần tất cả các công cụ tìm kiếm ngày nay kết hợp lại, và điều đó sẽ đến từ Cha Thiên Thượng toàn tri của chúng ta.19 Hãy nghĩ về cuộc đời toàn diện của Joseph—sinh ra trong cảnh nghèo nàn và có rất ít vốn liếng học vấn, ông đã phiên dịch Sách Mặc Môn trong vòng chưa đầy 90 ngày.20 Hàng chục ngàn người nam và người nữ thật lòng, tận tụy chấp nhận chính nghĩa của Sự Phục Hồi. Joseph đã đóng ấn lời chứng của ông bằng máu của ông vào lúc 38 tuổi. Tôi làm chứng rằng Joseph Smith là vị tiên tri của Thượng Đế. Hãy tin điều này trong tâm trí của các anh em, và tiếp tục công việc của mình!

Các Ân Tứ Giúp Phát Triển Đức Tin của Chúng Ta

Kinh Thánh lẫn Sách Mặc Môn bảo đảm tuyệt đối với chúng ta rằng Chúa Giê Su là Đấng Ky Tô, Vị Nam Tử của Thượng Đế. Tôi đang cầm trong tay ấn bản đầu tiên của Sách Mặc Môn bằng tiếng Pháp, được John Taylor xuất bản, khi ông bắt đầu công việc này ở Pháp vào năm 1852. Giờ đây, một phần hoặc cả quyển Sách Mặc Môn được phiên dịch ra 110 ngôn ngữ trên thế giới. Sách cung cấp một bằng chứng thuộc linh và hữu hình về lẽ trung thực của Sự Phục Hồi. Lần cuối cùng mà các anh em đọc Sách Mặc Môn từ đầu đến cuối là khi nào? Hãy đọc lại sách này đi. Sách này sẽ gia tăng đức tin của các anh em.21

Một sự ban cho khác từ Thượng Đế đã gia tăng đức tin của chúng ta là sự hướng dẫn của Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn và Nhóm Túc Số Mười Hai. Ngày hôm nay chúng ta đã tán trợ ba thành viên mới của Nhóm Túc Số Mười Hai, và tôi xin chào mừng Anh Cả Rasband, Anh Cả Stevenson, và Anh Cả Renlund đến với Nhóm Túc Số Mười Hai thiêng liêng. Phao Lô nói:

“Ấy chính Ngài đã [kêu gọi] người nầy làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri; …

“Để các thánh đồ được trọn vẹn … :

“Cho đến chừng chúng ta thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Đức Chúa Trời … :

“Ngài muốn chúng ta không … bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc.”22

Sự hướng dẫn của Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn và Nhóm Túc Số Mười Hai giúp bảo vệ đức tin chúng ta.

Ngọn lửa đức tin

Mặc dù ngọn lửa đức tin của các anh em lúc bắt đầu có thể nhỏ, nhưng những lựa chọn ngay chính sẽ làm cho các anh em tin tưởng nhiều hơn nơi Thượng Đế và đức tin của các anh em tăng trưởng. Những khó khăn của cuộc sống trần thế sẽ tấn công các anh em, và những lực lượng xấu xa ẩn nấp trong bóng tối với hy vọng sẽ dập tắt đức tin của các anh em. Nhưng khi các anh em tiếp tục chọn điều đúng, tin cậy Thượng Đế, và noi theo Vị Nam Tử của Ngài thì Chúa gửi đến ánh sáng và gia tăng sự hiểu biết, và đức tin của các anh em trở nên kiên định và vững vàng. Chủ Tịch Thomas S. Monson đã nói: “Chớ sợ. … Tương lai sẽ sáng lạn như đức tin của các anh em.”23

Porter, Zane, và Max Openshaw

Đức tin của các thanh thiếu niên trong Giáo Hội này thật là phi thường!

Gia đình Openshaw

Ngày 12 tháng 6 năm nay, tôi nhận được một email cho biết rằng vị giám trợ của một tiểu giáo khu ở Utah, cùng vợ và hai đứa con đã chết trong một tai nạn máy bay. Chiếc máy bay Giám Trợ Mark Openshaw đang lái đột nhiên rơi xuống đất trong khi nó đang cất cánh từ một sân bay nhỏ. Giám Trợ Openshaw, cùng vợ là Amy, và hai đứa con của họ là Tanner và Ellie đã tử nạn. Kỳ diệu thay, Max, đứa con trai năm tuổi của họ bị ném ra khỏi máy bay trong ghế ngồi của nó, đã sống sót và chỉ bị gãy xương.

Tôi biết được rằng con trai của họ là Anh Cả Porter Openshaw đang phục vụ ở Phái Bộ Truyền Giáo Marshall Islands Majuro và Zane, đứa con trai 17 tuổi, đang theo học chương trình trao đổi văn hóa ở Đức.

Tôi gọi điện thoại cho Anh Cả Openshaw ở Christmas Island. Mặc dù rất đau buồn trước cái chết bất ngờ của cha mẹ, em trai và em gái, nhưng ngay lập tức Anh Cả Openshaw hướng mối lo âu đến hai đứa em trai của mình.

Cuối cùng, chính Anh Cả Openshaw và đứa em trai là Zane đã quyết định rằng những người khác đã có thể giúp đỡ ở nhà và Porter nên ở lại phục vụ truyền giáo. Họ biết đó là điều mà cha mẹ họ muốn.

Anh Cả Porter Openshaw tại một lễ báp têm

Khi nói chuyện với Anh Cả Openshaw, tôi đã cảm nhận được nỗi buồn của anh ấy nhưng cũng thấy được ngọn lửa đức tin mãnh liệt của anh ấy nữa. Anh ấy nói với tôi: “Tôi có sự tin tưởng và tôi biết chắc rằng tôi sẽ gặp lại gia đình của tôi. … Sức mạnh trong những thử thách của chúng ta luôn được tìm thấy nơi … Chúa Giê Su Ky Tô. … Bàn tay toàn năng của Thượng Đế đã rõ ràng giúp đỡ [tôi] và các em tôi trong suốt thử thách vô cùng khó khăn [này].”24

Zane Openshaw nói chuyện tại tang lễ

Tôi gặp Zane lần đầu tại tang lễ. Khi nhìn vào bốn cỗ quan tài trước mặt chúng tôi trong giáo đường, tôi kinh ngạc trước đức tin của thiếu niên 17 tuổi này khi cậu ta ngỏ lời cùng giáo đoàn. Cậu ta nói: “Hôm nay, chúng ta quy tụ lại với lòng khiêm nhường và đau đớn, để tưởng nhớ cuộc sống của cha mẹ tôi và Tanner, và Ellie. … Chúng ta đã nói chuyện với nhau, cùng khóc với nhau, cùng tưởng nhớ với nhau, và cùng nhau cảm nhận được bàn tay của Thượng Đế. …

“Vào cái ngày sau khi tôi nghe tin về vụ tai nạn này, tôi bắt gặp một lá thư của mẹ tôi trong túi xách của tôi. Trong thư, mẹ tôi viết: ‘Zane con, con hãy nhớ con là ai và con từ đâu đến nhé. Gia đình sẽ cầu nguyện cho con và rất nhớ con.’” Zane nói tiếp: “Có thể không có những lời cuối cùng nào thích hợp hơn từ mẹ tôi. Tôi biết là mẹ tôi cùng với hai em Tanner, Ellie, và cha tôi có … cầu nguyện cho [các anh em của tôi và] tôi. Tôi biết rằng … họ cầu nguyện rằng tôi nhớ tôi là ai … vì giống như các anh chị em, tôi là con của Thượng Đế, và Ngài đã gửi tôi đến đây. Tôi làm chứng [rằng] … cho dù chúng ta có cảm thấy cô đơn như thế nào đi nữa thì Thượng Đế cũng sẽ không bỏ chúng ta.”25

Các bạn thân mến, đức tin của các anh em không bắt đầu vào lúc mới sinh, và cũng sẽ không kết thúc vào lúc chết. Đức tin là một sự lựa chọn. Hãy củng cố đức tin của các anh em và sống xứng đáng với những lời tán thành của Đấng Cứu Rỗi: “Ngươi có đức tin lớn.” Khi làm như vậy, tôi hứa với các anh em rằng một ngày nào đó, qua ân điển của Chúa Giê Su Ky Tô, đức tin của các anh em sẽ cho phép các anh em được trong sạch và thanh khiết để đứng với những người mà các anh em yêu thương trong sự hiện diện của Thượng Đế, trong tôn danh của Chúa Giê Su Ky Tô, A Men.

Ghi Chú

  1. Ma Thi Ơ 15:28.

  2. Ma Thi Ơ 6:30.

  3. Lu Ca 8:25.

  4. Ma Thi Ơ 8:10.

  5. Hê Bơ Rơ 11:1.

  6. Xin xem Alma 32:35.

  7. Xin xem L. Whitney Clayton, “Chọn để Tin,” Liahona, tháng Năm năm 2015, 36–39.

  8. Xin xem Lectures on Faith (1985), 3.

  9. Xin xem Ê Phê Sô 2:8.

  10. 1 Sa Mu Ên 15:22.

  11. Cuộc trò chuyện riêng với Aroldo Cavalcante, ngày 29 tháng Tám năm 2015, Salvador, Brazil, cũng như một email đề ngày 31 tháng Tám năm 2015. Có nhiều điều hơn nữa trong câu chuyện về sự cam kết của Aroldo Cavalcante với mẹ của anh ta để chăm sóc cho các em gái và một em trai của mình. Trong những năm tiếp theo cái chết của mẹ mình, anh ta thường công khai đề cập đến em trai và các em gái của anh là “con” của mình. Trong lúc đang phục vụ truyền giáo, các lá thư và những cú điện thoại vào ngày lễ Giáng Sinh và ngày lễ Mẹ thường giải quyết những thử thách riêng của mỗi người trong gia đình. Qua sự hy sinh tuyệt vời sau khi truyền giáo xong, Aroldo đã đảm nhận trách nhiệm tài chính cho học vấn của họ và công việc truyền giáo của em trai mình. Aroldo đợi cho đến khi các em gái và em trai của mình kết hôn rồi anh ấy mới kết hôn lúc 32 tuổi. Họ vẫn là một gia đình rất gắn bó.

  12. Lu Ca 22:32.

  13. Giáo Lý và Giao Ước 8:2.

  14. 1 Cô Rinh Tô 2:11.

  15. Giăng 14:16–17.

  16. Xin xem Adam Kotter, “When Doubts and Questions Arise,” Liahona, tháng Ba năm 2015, 39–41.

  17. Anh Cả Neal A. Maxwell có lần đã nói: “Một số người cứ nhất định nghiên cứu về Giáo Hội chỉ qua quan điểm của người bội giáo—giống như phỏng vấn Giu Đa để hiểu Chúa Giê Su. Những người bội giáo luôn luôn cho chúng ta biết về bản thân họ hơn là nơi mà từ đó họ đã rời bỏ” (“All Hell Is Moved” [buổi họp đặc biệt devotional tại trường Brigham Young University, ngày 8 tháng Mười Một năm 1977], 3, speeches.byu.edu).

  18. 1 Cô Rinh Tô 2:14.

  19. “Tôi chưa bao giờ nói với các anh chị em là tôi hoàn hảo; nhưng không có một lỗi lầm nào trong những điều mặc khải mà tôi đã giảng dạy” (Những Lời Giảng Dạy của Các Vị Chủ Tịch của Giáo Hội: Joseph Smith [2007], 522).

  20. Xin xem John W. Welch và Tim Rathbone, “The Translation of the Book of Mormon: Basic Historical Information” (Foundation for Ancient Research and Mormon Studies, 1986).

  21. Một sự làm chứng thuộc linh về Sách Mặc Môn là trọng tâm của sự cải đạo của Các Thánh Hữu Ngày Sau. Đó là một sự làm chứng mà cần phải được liên tục lặp đi lặp lại . Nếu không, thì những cảm nghĩ thuộc linh sẽ mờ dần và một người không còn nhớ đến quyền năng mà mình đã từng cảm thấy nữa. “Và … dân chúng bắt đầu quên những điềm triệu và những điều kỳ diệu mà họ đã được nghe, và họ cũng bắt đầu bớt ngạc nhiên về … điều kỳ diệu trên trời, đến nỗi họ bắt đầu chai đá trong lòng và mù quáng trong trí, và bắt đầu không tin tất cả những gì họ đã được nghe và thấy … và [bắt đầu] tin rằng giáo lý của Đấng Ky Tô là một điều điên rồ và vô bổ” (3 Nê Phi 2:1–2).

  22. Ê Phê Sô 4:11–14.

  23. Thomas S. Monson, “Hãy Vui Lên,” Liahona, tháng Năm năm 2009, 92.

  24. Thư riêng nhận được từ Anh Cả Porter Openshaw, ngày 23 tháng Tám năm 2015.

  25. Lời dẫn giải của Zane Openshaw tại tang lễ của những người trong gia đình, ngày 22 tháng Sáu năm 2015.