2009
Di Sản Lâu Đời của Hội Phụ Nữ
Tháng Mười Một năm 2009


Di Sản Lâu Đời của Hội Phụ Nữ

Lịch sử của Hội Phụ Nữ được ghi lại bằng lời và bằng con số nhưng di sản thì được truyền đi bằng tấm lòng.

Hình Ảnh
President Henry B. Eyring

Tôi biết ơn được có mặt với các chị em buổi tối hôm nay. Tôi bày tỏ tình yêu thương và lòng biết ơn của Chủ Tịch Monson và Chủ Tịch Uchtdorf đối với các chị em. Từ lúc được thành lập vào năm 1842, Hội Phụ Nữ đã được ban phước nhờ khả năng trông coi kỹ lưỡng và đầy tình thương của vị tiên tri của Thượng Đế. Vào lúc khởi đầu ở Nauvoo, Joseph Smith đã chỉ dẫn cho các vị lãnh đạo và tín hữu đang nhóm họp.

Khi biết rằng các chị em có được lịch sử đầy vinh quang đó, tôi cảm thấy gánh nặng trách nhiệm về lời mời này của Chủ Tịch Monson để ngỏ lời cùng các chị em. Tại một trong số các buổi họp đầu tiên đó của Hội Phụ Nữ, Tiên Tri Joseph Smith đã làm cho Giám Trợ Newel K. Whitney ngạc nhiên khi yêu cầu ông nói chuyện thay cho mình. Giám Trợ Whitney nói rằng ông rất vui được đến đó để được Vị Tiên Tri giảng dạy nhưng ông không ngờ rằng chính ông lại là người nói chuyện. Tôi hiểu những cảm nghĩ thất vọng của ông—cũng có lẽ của các chị em nữa.

Vậy nên tôi hỏi Chủ Tịch Monson trong khi chuẩn bị cho giờ phút này rằng ông cảm thấy điều gì sẽ hữu ích nhất để cho các chị em nghe. Điều ông nói đã xác nhận về ấn tượng đến với tôi khi tôi nghiên cứu và cầu nguyện.

Buổi tối hôm nay, tôi sẽ ngỏ lời với các chị em về di sản lớn lao do những người ở trong Hội Phụ Nữ trước các chị em chuyển giao cho các chị em. Phần nền tảng mà họ đã đặt xuống cho các chị em mà dường như đối với tôi là quan trọng và kiên trì nhất là lòng bác ái chính là trọng tâm của Hội Phụ Nữ và phải thuộc vào tâm hồn, phải thuộc vào bản tính của mỗi tín hữu. Đối với họ, lòng bác ái còn có nghĩa nhiều hơn là một cảm nghĩ nhân từ. Lòng bác ái nảy sinh từ đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô và là hiệu quả của Sự Chuộc Tội của Ngài, đang tác động tấm lòng các tín hữu. Nhiều nhóm phụ nữ nhân từ làm việc thiện. Nhiều nhóm người có những cảm nghĩ đồng cảm sâu xa đối với người bất hạnh, đau yếu và túng thiếu. Nhưng tổ chức này là độc nhất vô nhị và đã là như vậy từ lúc khởi đầu.

Trong nền tảng mà họ dựng lên, những người phụ nữ cao cả đó đã đặt “lòng bác ái không bao giờ hư mất”1 vào đúng trọng tâm. Nó đã phục sự họ từ lúc khởi đầu; nó đã phục sự họ trong thời điểm lớn lao sau đó; và nó phục sự họ bây giờ trong thời điểm mới; và nó sẽ phục sự Hội Phụ Nữ trong tất cả những thời điểm trước mắt. Hội Phụ Nữ này gồm có các phụ nữ mà những cảm nghĩ bác ái của họ xuất phát từ những tấm lòng được thay đổi nhờ hội đủ điều kiện và tuân giữ các giao ước chỉ được ban cho trong Giáo Hội chân chính của Chúa. Những cảm nghĩ bác ái của họ đến từ Ngài qua Sự Chuộc Tội của Ngài. Hành động bác ái của họ được hướng dẫn bởi tấm gương của Ngài—và phát sinh từ lòng biết ơn về ân tứ thương xót vô hạn của Ngài—và qua Đức Thánh Linh, do Ngài gửi đến để đồng hành cùng các tôi tớ của Ngài trong sứ mệnh thương xót của họ. Bởi vì thế họ đã làm và có thể làm những điều hiếm thấy cho những người khác cũng như tìm ra niềm vui mặc dù họ có rất nhiều nhu cầu chưa được thỏa mãn.

Lịch sử của Hội Phụ Nữ đầy dẫy những câu chuyện phi thường về sự phục vụ vô vị kỷ . Trong những ngày khủng khiếp bị ngược đãi và cướp bóc khi những người trung tín rời bỏ Ohio, đến Missouri, đến Illinois, và rồi vượt ngang sa mạc đi về miền tây, trong cảnh nghèo nàn và buồn phiền các chị em phụ nữ đã chăm sóc cho những người khác. Các chị em sẽ khóc như tôi đã khóc nếu bây giờ tôi đọc cho các chị em nghe một số câu chuyện trong lịch sử Hội Phụ Nữ. Các chị em sẽ xúc động bởi lòng rộng lượng của họ nhưng còn hơn thế nữa bởi khả năng nhận biết về đức tin mà đã nâng đỡ và hỗ trợ họ.

Họ đến từ nhiều hoàn cảnh khác nhau. Tất cả đều trải qua những thử thách chung và nỗi đau lòng của cuộc sống. Quyết tâm của họ nảy sinh từ đức tin để phục vụ Chúa và những người khác dường như mang họ không phải xa khỏi mà là thẳng vào những cơn bão tố. Một số người còn trẻ và một số người đã lớn tuổi. Họ đến từ nhiều vùng đất khác nhau và là những người giống như các chị em ngày nay. Nhưng họ đồng tâm nhất trí và có cùng một mục đích. Họ quyết tâm giúp Chúa xây dựng Si Ôn của Ngài, là nơi có thể có nếp sống hạnh phúc mà Sách Mặc Môn đã mô tả một cách sống động cho họ. Các chị em còn nhớ một số cảnh tượng từ sách Nê Phi 4 mà họ đã nghĩ đến bất cứ nơi nào Chúa dẫn họ đi trong cuộc hành trình đến Si Ôn:

“Và chuyện rằng, đến năm thứ ba mươi sáu, tất cả dân chúng khắp nơi trong xứ đều được cải đạo theo Chúa, cả người Nê Phi lẫn người La Man, và không có một sự bất hòa hay tranh luận nào xảy ra giữa họ. Mọi người đều đối xử với nhau rất công bình.

“Và họ xem mọi vật là của chung; vậy nên, chẳng phải có ai giàu hay nghèo, nô lệ hay tự do, mà trái lại tất cả mọi người đều được tự do và cùng nhau chia sẻ ân tứ thiên thượng …

“Và chuyện rằng, trong xứ không có chuyện tranh chấp nào xảy ra, nhờ tình thương yêu của Thượng Đế đã ở trong lòng mọi người dân.”2

Các thành viên đầu tiên của Hội Phụ Nữ không bước vào thời kỳ thanh bình như vậy. Nhưng tình yêu thương của Thượng Đế ngự trong lòng họ. Vậy nên Hội Phụ Nữ—cùng họ—đã chịu đựng cuộc hành trình về miền tây và trong những năm tháng tiếp theo. Vì hoàn cảnh khó khăn nên Hội Phụ Nữ đã ngừng hoạt động với tính cách là một tổ chức to lớn khắp Giáo Hội trong gần bốn thập niên. Nhưng năm 1866, Brigham Young kêu gọi Eliza R. Snow phụ giúp các vị giám trợ trong việc tổ chức các Hội Phụ Nữ. Bà được kêu gọi với tư cách là chủ tịch trung ương thứ nhì của Hội Phụ Nữ vào năm 1880. Biên sử của Hội Phụ Nữ cho thấy rằng khi các vị lãnh đạo tiếp xúc với các chị em phụ nữ trong khắp Giáo Hội để bắt đầu lại lần nữa công việc chính thức của Hội Phụ Nữ thì họ thấy rằng lòng bác ái của mình không hề giảm bớt. Họ tiếp tục tìm đến những người đang gặp hoạn nạn với lòng thương xót. Đối với những người vẫn luôn trung thành với các giao ước của mình, ân tứ về lòng bác ái, tức là tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô, đã tồn tại. Ân tứ này vẫn thuộc về họ.

Trong những năm sau đó, Hội Phụ Nữ gia tăng con số thành viên và khả năng phục vụ những người gặp hoạn nạn. Dưới sự lãnh đạo của các phụ nữ có tầm nhìn rộng và khả năng lớn lao, Hội Phụ Nữ dẫn đầu trong việc bắt đầu phục vụ từ thiện mà không ở trên cùng biên giới đối với những người trong cảnh hoạn nạn. Họ thiết lập một bệnh viện nhỏ. Họ hỗ trợ các phụ nữ trong chuyến đi về miền Đông để nhận được sự huấn luyện y tế nhằm làm việc cho bệnh viện đó. Đó là khởi đầu của một trong số các hệ thống bệnh viện lớn ở Hoa Kỳ.

Họ bắt đầu những chương trình mà sau nhiều năm đã trở thành các chương trình Dịch Vụ Xã Hội của Thánh Hữu Ngày Sau toàn cầu. Họ lập ra một hệ thống dự trữ ngũ cốc hữu hiệu đến nỗi họ có thể đáp ứng lời yêu cầu xin giúp đỡ từ chính phủ liên bang trong thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng. Họ bắt đầu thiết lập một tổ chức mà đã trở thành Hội Thiếu Nhi và một tổ chức mà đã trở thành tổ chức các thiếu nữ trong Giáo Hội. Họ sáng lập một tạp chí dành riêng cho phụ nữ. Họ trở thành một trong số các tổ chức to lớn nhất dành cho phụ nữ trên thế giới. Họ cũng thuộc vào những tổ chức lãnh đạo phụ nữ trên nước Mỹ.

Hội Phụ Nữ là trọng tâm của khả năng Giáo Hội bắt đầu việc viện trợ nhân đạo trên khắp thế giới. Các vị lãnh đạo của các quốc gia khi đến thăm Utah đều biểu lộ nỗi kinh ngạc và ngưỡng mộ về điều mà Giáo Hội đang làm cho người nghèo và các nạn nhân chiến tranh cùng các thiên tai trên khắp thế giới. Các ân tứ phi thường đó dành cho các con cái của Thượng Đế là một phần di sản lâu dài của Hội Phụ Nữ.

Tiên Tri Joseph Smith nói cho Hội Phụ Nữ biết trong các buổi họp đầu tiên của họ rằng những điều phi thường như vậy phát xuất từ sự phục vụ trung tín của họ. Ông nói rằng các bà hoàng sẽ tiến đến việc học hỏi từ sự phục vụ và là một phần của sự phục vụ.3 Tôi thấy lời tiên tri đó đã được ứng nghiệm. Và tôi có thể thấy rõ từ các biên sử rằng một lời hứa của thánh thư dành cho những người phục vụ Chúa trong công việc của Ngài cũng được ban cho những người tiền phong đó trong Hội Phụ Nữ. Lời hứa đó được ban cho qua Tiên Tri Joseph Smith đã được ghi lại trong Tiết 88 của sách Giáo Lý và Giao Ước. Nó nói về những người sẽ được kêu gọi phục vụ với Ngài trong thời kỳ liên tục:

“Và ông bảo người thứ nhất: Ngươi hãy ra ruộng làm lụng đi, rồi trong giờ thứ nhất ta sẽ đến với ngươi, và ngươi sẽ thấy sự vui mừng trên gương mặt ta.

“Rồi ông nói với người thứ hai: Ngươi cũng hãy ra đồng làm ruộng đi, rồi trong giờ thứ hai ta sẽ ra thăm ngươi với sự vui mừng trên gương mặt ta.

“Và ông cũng nới với người thứ ba: Ta sẽ ra thăm ngươi;

“Và với người thứ tư, và cứ thế cho đến người thứ mười hai.

“Và người chủ ruộng đi đến người thứ nhất trong giờ thứ nhất, và ở lại với người đó suốt giờ, và người đó được hân hoan bởi sự sáng trên gương mặt của chủ mình.”4

Hiển nhiên là từ biên sử họ để lại, các phụ nữ trong thời kỳ đầu tiên của Hội Phụ Nữ đã cảm nhận được nỗi vui mừng mà Chúa đã hứa. Ngài cùng làm việc với họ. Ngài làm cho công việc đó được thành công và họ đã cảm nhận được niềm vui và ánh sáng.

Nhưng Tiên Tri Joseph biết trước rằng một thời kỳ khác sẽ theo sau. Ông đã thấy công việc vĩ đại mà họ sẽ xây đắp trong thời kỳ thứ nhất. Nhưng ông cũng nói rằng họ phải phục vụ, ban phước, chăm sóc cho những người gần gũi họ và từng người trong số họ được những người họ phục vụ biết đến.

Sau thời kỳ phục vụ đầy vui mừng dành cho Hội Phụ Nữ, Chúa dẫn họ vào một thời kỳ khác, để xa rời những khu vực mà họ đã phục vụ một cách thật tận tình. Ví dụ, thật là khó khăn cho những người nam trung tín là những người thừa hưởng hệ thống bệnh viện họđã mở rộng dựa trên nền tảng do Hội Phụ Nữ xây dựng lên. Qua các vị tiên tri của Ngài, Chúa đã nói rõ rằng các tôi tớ có chức tư tế có thể chuyển giao lòng tin cậy của việc duy trì và xây dựng công cụ mạnh mẽ tốt lành này cho những người khác. Vậy nên Giáo Hội đã hiến tặng hệ thống bệnh viện tuyệt diệu của mình.

Tôi biết và ngưỡng mộ những người đã cảm thấy niềm vui phục vụ trong hệ thống bệnh viện đó. Và tôi đã thấy họ nhận biết rằng niềm vui xuất phát từ sự làm việc cùng với Chúa không phải từ những thành tích của họ. Vậy nên, họ mỉm cười và vui vẻ hiến tặng những gì mà đã xây dựng lên. Họ có đức tin rằng Chúa đã thấy nhu cầu lớn lao hơn về sự phục vụ của họ ở một nơi nào khác, trong những lãnh vực khác và trong thời kỳ khác.

Một phần quý báu của di sản Hội Phụ Nữ của các chị em là cũng đức tin đó trong lòng của những người lãnh đạo và các thành viên của Hội Phụ Nữ. Chúa đã biết nơi nào tài năng tuyệt mỹ của họ sẽ được cần đến trong thời kỳ kế tiếp và nơi nào họ sẽ tìm ra một niềm vui còn lớn lao hơn nữa trong những tổ chức từ thiện tuyệt diệu mà họ đã bắt đầu xây dựng.

Giáo Hội phát triển rộng lớn hơn và lan tràn khắp thế giới. Những dịch vụ mà Hội Phụ Nữ tạo ra bắt đầu đòi hỏi tài nguyên khổng lồ và sự trông coi liên tục trong một Giáo Hội đang bành trướng và một thế giới ngày càng hỗn loạn. Việc thực hiện những chương trình to lớn và đầy tập trung làm giảm bớt cơ hội của những người lãnh đạo và thành viên của Hội Phụ Nữ để cảm thấy được niềm vui phục vụ người khác cùng với Chúa.

Trong một thời kỳ mới, Chúa đã có cơ hội sẵn sàng thích hợp cho họ. Hệ thống độc nhất mà có thể cung ứng sự giúp đỡ và an ủi trong cả một giáo hội to lớn như vậy trong một thế giới thật đa dạng phải nhờ vào từng tôi tớ đang sống gần những người đang gặp cảnh hoạn nạn. Chúa đã thấy điều đó phát xuất từ sự khởi đầu của Hội Phụ Nữ.

Ngài đề ra một mẫu mực thích hợp. Hai chị phụ nữ trong Hội Phụ Nữ chấp nhận nhiệm vụ để đi thăm một chị khác như Chúa đã kêu gọi. Điều đó đúng từ lúc bắt đầu. Các chức sắc Hội Phụ Nữ tổ chức các tín hữu mà họ biết là có đức tin để phục vụ với lòng trắc ẩn khi nhu cầu vượt quá khả năng của hai giảng viên thăm viếng đã được chỉ định. Sự việc đó luôn luôn xảy ra gần nhà, ở giữa những người quen biết với nhau. Các tín hữu giảng dạy phúc âm trong những buổi họp địa phương và chia sẻ chứng ngôn về Đấng Cứu Rỗi và về Sự Phục Hồi. Những người con gái trông nom những bà mẹ. Các bà mẹ lắng nghe, giảng dạy và chăm sóc cho con gái.

Các thành viên của Hội Phụ Nữ đều luôn luôn được những người chăn là những người mang chức tư tế ở địa phương tin cậy. Mỗi giám trợ và chủ tịch chi nhánh đều có một chủ tịch Hội Phụ Nữ để tin cậy. Người chủ tịch này có các giảng viên thăm viếng là những người biết về những thử thách và nhu cầu của mỗi chị phụ nữ. Qua các giảng viên thăm viếng, người chủ tịch này biết được tấm lòng của các cá nhân và gia đình, có thể đáp ứng cùng giúp vị giám trợ trong sự kêu gọi của ông nhằm chăm sóc cho các cá nhân và gia đình.

Một phần di sản kỳ diệu của Hội Phụ Nữ thì rất hiển nhiên theo cách mà chức tư tế đã cho thấy và ngược lại cũng nhận được sự kính trọng từ Hội Phụ Nữ. Tôi cũng như các chị em đã thấy điều đó. Cách đây nhiều năm, vị giám trợ của gia đình tôi mỉm cười nói với tôi: “Tại sao mỗi lần tôi đến thăm một người nào đó đang gặp hoạn nạn trong tiểu giáo khu thì dường như vợ của anh lúc nào cũng có mặt ở đó trước tôi vậy?” Mỗi vị giám trợ và chủ tịch chi nhánh mà không có kinh nghiệm nào cả đều cảm thấy có một thúc giục dịu dàng về tấm gương đầy soi dẫn của các chị em trong Hội Phụ Nữ. Họ giúp chúng ta nhớ rằng đối với mọi người, nam lẫn nữ, thì sẽ không có sự cứu rỗi nếu không phục vụ với lòng trắc ẩn.

Đối với các chị em lớn tuổi hơn vẫn còn nhớ Chủ Tịch Marion G. Romney trích dẫn câu thánh thư này khi ông nói rằng ông đã quyết tâm như các chị em phụ nữ đã quyết tâm phải trung tín trong việc phục vụ với lòng trắn ẩn đó. Ông trích dẫn Vua Bên Gia Min:

“Và này, vì những lời tôi vừa nói với các người—có nghĩa là để hằng ngày gìn giữ sự xá miễn các tội lỗi cho các người ngõ hầu các người có thể trở nên vô tội khi các người bước đi trước mặt Thượng Đế—tôi mong rằng, các người nên san xẻ những của cải của mình cho người nghèo khó, mỗi người tùy theo những gì mình có, như đem thức ăn cho kẻ đói, đem áo quần cho kẻ thiếu mặc, thăm viếng kẻ bệnh, và trợ giúp họ về tinh thần lẫn vật chất, tùy theo nhu cầu của họ.”5

Lý do mà Chủ Tịch Romney mỉm cười nếu tôi còn nhớ khi ông làm điều đó là ông nói rằng ông thật sự muốn các tội lỗi của ông được xá miễn. Và ông nghĩ rằng ông sẽ cùng với các chị em phụ nữ thực hiện mỗi hành động phục vụ với lòng trắc ẩn trong khả năng của mình.

Bây giờ là lúc để nói về điều mà các chị em cần phải làm để chuyển giao di sản tuyệt vời và thiêng liêng này của Hội Phụ Nữ cho những người sẽ tiếp nối các chị em. Sẽ cần có những điều nhỏ nhặt và giản dị. Hãy nhớ rằng di sản này được truyền đi cho nhau bằng tấm lòng. Lòng bác ái, tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô, là một phần của sự thay đổi trong lòng mà Chúa đã hứa với các môn đồ trung tín của Ngài. Vậy nên, không khó khăn gì để thấy những điều giản dị mà các chị em có thể và cần phải làm nhằm chuyển giao di sản này.

Vi dụ, mỗi lần các chị em và người bạn đồng hành của mình chuẩn bị đi thăm viếng giảng dạy thì các chị em cần phải nhớ rằng điều này sẽ mang đến thành công gì. Việc được thành công sẽ có ý nghĩa nhiều hơn là chỉ đi đến tận cửa, nhiều hơn là chỉ đưa ra một sứ điệp, nhiều hơn là chỉ hỏi các chị em có thể giúp đỡ như thế nào. Thành công sẽ đến có lẽ chỉ sau khi đã đến thăm viếng nhiều lần. Và trong thế giới này, các chị em có thể không thấy bằng chứng là mình đã thành công.

Nhưng các chị em có thể cảm thấy được qua Thánh Linh là các chị em có đang tiến triển hay không.

Tôi nói chuyện với một thành viên trong Hội Phụ Nữ về một cuộc viếng thăm của chị ấy. Đó là cuộc viếng thăm một phụ nữ mới vừa mất chồng một cách đột ngột và thảm thương. Trong những năm gần đây, người phụ nữ đó liên lạc rất thất thường với Hội Phụ Nữ.

Người đến thăm chuẩn bị bằng cách ngừng lại ở một cửa hàng để mua hoa. Đó là mùa mà các đóa hoa uất kim hương đủ màu sắc được bầy bán. Người ấy chọn một màu mình ưa thích nhưng rồi cảm thấy có ấn tượng phải lấy màu khác. Người ấy không biết tại sao lại chọn màu vàng, nhưng người ấy vẫn chọn.

Khi người ấy trao các đóa hoa uất kim hương màu vàng tại ngưỡng cửa thì người phụ nữ ấy mỉm cười nói: “Hãy đến xem sân sau của tôi.” Sân có đầy hoa uất kim hương màu vàng đang nở rộ. Người phụ nữ ấy nói: “Tôi đang tự hỏi có nên cắt một ít hoa vào nhà cắm không. Nhưng bây giờ tôi có thể để hoa đó ở ngoài sân sau và thưởng thức chúng lâu hơn một chút trong vườn nhà tôi vì chị đã mang các đóa hoa này cho tôi.” Họ nói chuyện vui vẻ thể như họ là bạn thân của nhau. Từ ấn tượng để mang đến một số hoa và chọn hoa uất kim hương màu vàng, người giảng viên thăm viếng đó đã thấy bằng chứng rằng mình đang làm công việc của Chúa. Khi chị ấy kể cho tôi nghe, tôi đã có thể nghe được niềm vui trong giọng nói của chị ấy.

Khi nói chuyện với tôi, người giảng viên thăm viếng ấy không biết người góa phụ đã cảm thấy như thế nào sau cuộc viếng thăm. Nhưng, nếu người góa phụ cảm thấy rằng Thượng Đế đã yêu thương người ấy và Ngài đã gửi một thiên thần đến với người ấy, thì người giảng viên thăm viếng đã giúp người ấy đi trên con đường dẫn đến thành công dưới mắt của Chúa. Người đi thăm viếng đó có lẽ chỉ biết về sự thành công từ nỗ lực trung tín của mình trong thế giới mai sau. Điều đó đúng đối với hai người thăm viếng giảng dạy là những người trong gần chín năm đã nhiều lần mang tình yêu thương đến với một góa phụ khác sống trong một nhà dưỡng lão gần đó. Sau những thử thách khó khăn, người góa phụ ấy mới qua đời cách đây chỉ vài tuần.

Do điều mà tôi biết được từ con trai của người góa phụ ấy, tôi tin rằng những người thăm viếng giảng dạy đó đã thành công. Họ sẽ có kinh nghiệm vui mừng mà mẹ của Tiên Tri Joseph Smith đã mô tả cho các chị em phụ nữ trong một buổi họp Hội Phụ Nữ mà bà tham dự. Bà nói:

“Chúng ta cần phải quý trọng nhau [và] trông nom chăm sóc cho nhau, an ủi và nhận chỉ dẫn để chúng ta có thể cùng nhau ngồi trên thiên thượng.”6

Các chị em chuyển giao lại di sản khi các chị em giúp những người khác nhận được ân tứ về lòng bác ái trong lòng họ. Rồi họ sẽ có thể chuyển giao lại di sản đó cho những người khác. Lịch sử của Hội Phụ Nữ được ghi lại bằng lời và bằng con số nhưng di sản thì được truyền đi bằng tấm lòng. Đó là lý do tại sao gia đình được hưởng lợi ích như thế từ Hội Phụ Nữ. Mẹ tôi đã để lại cho tôi một cái ghim cài áo có ghi chữ “Lòng Bác Ái Không Bao Giờ Hư Mất”. Chị Beck tặng tôi một vật nhỏ này để cài trên áo.

Di sản lâu đời mà mẹ tôi để lại cho gia đình bà thì còn hơn cái ghim cài áo. Đó là tình yêu thương của bà và của Chúa mà tôi đã thấy và cảm nhận được trong những điều giản dị bà đã làm với lòng trắc ẩn cho Ngài. Bà là một người phụ nữ trong Hội Phụ Nữ. Mẹ tôi không có con gái, nhưng vợ tôi đã chuyển giao di sản đó cho hai đứa con gái của chúng tôi. Và chúng sẽ giữ di sản đó được sống mãi trong lòng của những người khác. Và di sản đó sẽ tồn tại lâu dài bởi vì lòng bác ái không bao giờ hư mất.

Tôi làm chứng rằng lòng bác ái là tình thương yêu thanh khiết của Đấng Ky Tô. Ngài hằng sống. Khi cùng với Ngài phục vụ những người khác, chúng ta cảm nhận được niềm vui của Ngài. Qua Sự Chuộc Tội của Ngài, Ngài đã làm cho chúng ta có thể khẩn cầu và tiếp nhận ân tứ về lòng bác ái. Tôi biết rằng Đức Chúa Cha hằng sống và đáp ứng những lời cầu nguyện của chúng ta. Các chị em là thành viên của một Hội Phụ Nữ được thiết lập và được đề ra để hoạt động bởi Vị Tiên Tri của Sự Phục Hồi, đó là Joseph Smith. Chị Beck và hai cố vấn của chị được kêu gọi qua sự soi dẫn của Thượng Đế mà đã được ban cho một vị tiên tri tại thế. Tôi biết điều đó là đúng như vậy.

Các chị em có một di sản vinh quang. Tôi cầu nguyện Thượng Đế rằng Ngài sẽ soi dẫn các chị em để gìn giữ cùng chuyển giao di sản ấy để ban phước và mang niềm vui đến cho những người trong các thế hệ và thời kỳ sắp tới. Trong tôn danh của Chúa Giê Su Ky Tô, là Đấng mà chúng ta phục vụ, A Men.

GHI CHÚ

  1. 1 Cô Rinh Tô 13:8; Mô Rô Ni 7:46.

  2. 4 Nê Phi 1:2–3, 15.

  3. Xin xem Relief Society, Minute Book tháng Ba năm 1842–tháng Ba năm 1844, ghi chép cho ngày 28 tháng Tư năm 1842, Church History Library, Salt Lake City, 39.

  4. GLGƯ 88:52–56; sự nhấn mạnh được thêm vào.

  5. Mô Si A 4:26.

  6. Lucy Mack Smith, trong Relief Society, Minute Book tháng Ba năm 1842–tháng Ba năm 1844, ghi chép cho ngày 24 tháng Ba năm 1842, 18–19.

In