Thư Viện
Bài Học 73: An Ma 6–7


Bài Học 73

An Ma 6–7

Lời Giới Thiệu

Sau khi thiết lập trật tự trong Giáo Hội ở Gia Ra Hem La, An Ma đi tới thành phố Ghê Đê Ôn. Ông nhận thấy dân chúng ở đó trung tín nhiều hơn dân ở Gia Ra Hem La. Vì vậy, sứ điệp của ông ở Ghê Đê Ôn là khác với sứ điệp của ông ở Gia Ra Hem La. Ông khuyến khích mọi người phải tiếp tục trông cậy vào Chúa và tìm cách áp dụng Sự Chuộc Tội của Ngài trong cuộc sống của họ. Ông đã làm chứng rằng Đấng Cứu Rỗi sẽ mang lấy cái chết và tội lỗi chúng ta, và Ngài cũng sẽ mang lấy những nỗi đau đớn, buồn phiền, đau ốm, và yếu đuối của chúng ta, để Ngài có thể biết được cách giúp đỡ chúng ta.

Những Đề Nghị về Cách Giảng Dạy

An Ma 6

An Ma thiết lập trật tự trong Giáo Hội ở Gia Ra Hem La và đi thuyết giảng ở Ghê Đê Ôn

Trước khi bắt đầu bài học, hãy mời một học sinh chuẩn bị chia sẻ vắn tắt với lớp học một số cách mà em ấy đã cảm thấy được phước vì những nỗ lực của mình để đi nhà thờ. Để bắt đầu bài học, yêu cầu học sinh này lên trước lớp học và chia sẻ những ý nghĩ mà em ấy đã chuẩn bị. Các anh chị em cũng có thể chia sẻ việc các anh chị em đã được ban phước như thế nào qua việc tham dự nhà thờ.

Giới thiệu An Ma 6 bằng cách giải thích rằng chương này dạy An Ma và các vị lãnh đạo khác của chức tư tế đã củng cố Giáo Hội ở Gia Ra Hem La như thế nào.

Mời một học sinh đọc to An Ma 6:4–6. Yêu cầu lớp học dò theo cùng tìm kiếm điều mà các tín hữu của Giáo Hội ở Gia Ra Hem La đã làm cho những người không biết Thượng Đế. Mời học sinh báo cáo điều họ đã học được.

Viết lên trên bảng lẽ thật sau đây: Giáo Hội được thiết lập vì sự an lạc của tất cả mọi người. Để giúp học sinh suy nghĩ về việc lẽ thật này có thể ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của họ, hãy hỏi:

  • Các em nghĩ Giáo Hội ngày nay có thể ban phước như thế nào cho những người không biết Thượng Đế?

Mời học sinh suy nghĩ về một người nào đó cần phải biết Thượng Đế rõ hơn. Người này có thể là tín hữu của Giáo Hội, hoặc tín hữu của một tôn giáo khác. Làm chứng về các phước lành chúng ta nhận được vì chúng ta là tín hữu của Giáo Hội, và khuyến khích học sinh mời người khác chia sẻ về các phước lành đó.

An Ma 7:1–13

An Ma tiên tri về sự hiện đến của Chúa Giê Su Ky Tô

Chia lớp học ra thành từng cặp. Yêu cầu mỗi cặp thảo luận câu trả lời của họ cho câu hỏi sau đây:

  • Các em đang phấn khởi về một số sự kiện nào trong tương lai?

Sau khi các cặp học sinh đã có thời gian để thảo luận các câu trả lời của họ cho câu hỏi này, hãy yêu cầu một vài học sinh chia sẻ những câu trả lời của họ với cả lớp. Sau đó giải thích rằng sau khi An Ma thiết lập trật tự trong Giáo Hội ở Gia Ra Hem La, ông đã đi đến thành phố Ghê Đê Ôn. Ông nói với dân chúng ở đó rằng trong số tất cả những sự việc xảy đến trong tương lai, thì có một việc “quan trọng hơn hết thảy” (An Ma 7:7). Ông dạy các nguyên tắc mà sẽ giúp dân chúng chuẩn bị cho các phước lành mà sẽ đến vì sự kiện này trong tương lai.

Mời một học sinh đọc to 1 Nê Phi 7:3–6. Yêu cầu lớp học tìm kiếm những hy vọng An Ma đã có về dân chúng ở Ghê Đê Ôn. Sau đó mời một học sinh khác đọc to An Ma 7:18–19. Yêu cầu học sinh mô tả điều An Ma đã biết được bằng sự soi dẫn về dân chúng ở Ghê Đê Ôn.

Mời học sinh im lặng đọc An Ma 7:7, 9–10 cùng tìm kiếm sự kiện mà An Ma đã cảm thấy là quan trọng nhất để cho dân chúng biết.

  • Theo An Ma, “có một việc quan trọng hơn hết thảy” sắp xảy đến là gì? Các em nghĩ tại sao sự giáng lâm của Đấng Cứu Rỗi luôn luôn là sự kiện quan trọng nhất?

  • Các em nghĩ tại sao An Ma nói với một dân tộc đã tin tưởng và đã có đức tin vững mạnh rằng họ cần phải hối cải?

Giải thích rằng sau đó An Ma dạy tại sao sự giáng lâm của Chúa Giê Su Ky Tô là sự kiện quan trọng nhất trong suốt lịch sử con người. Yêu cầu một vài học sinh thay phiên nhau đọc to từ An Ma 7:11–13. Mời những người khác trong lớp dò theo và nhận ra điều Đấng Cứu Rỗi đã mang lấy thay cho chúng ta. (Các anh chị em có thể cần phải giải thích rằng giúp đỡ có nghĩa là cứu giúp hoặc trợ giúp một người nào đó).

Hãy nêu lên rằng An Ma 7:11–13 là một đoạn thánh thư thông thạo. Các anh chị em có thể muốn đề nghị học sinh đánh dấu đoạn này trong một cách đặc biệt để họ sẽ có thể dễ dàng tìm thấy.

Liệt kê các câu trả lời của học sinh theo tiêu đề theo chiều ngang ở phía trên cùng của tấm bảng. Câu trả lời có thể gồm có đau đớn, buồn phiền, cám dỗ, bệnh tật, cái chết, sự yếu đuối (yếu kém hoặc bất tài),tội lỗi.

Các anh chị em có thể muốn đề nghị học sinh tô đậm từ “mọi” trong An Ma 7:11. Yêu cầu họ đặt tên cho các ví dụ của từng tình huống được viết ở trên bảng. Khi học sinh đưa ra ví dụ, viết các ví dụ đó ở bên dưới các tiêu đề tương ứng. (Ví dụ, ung thư có thể được liệt kê dưới bệnh tật,khuyết tật ở thể xác có thể được liệt kê dưới sự yếu đuối).

Mời một học sinh đọc lời phát biểu sau đây của Anh Cả Bruce C. Hafen thuộc Nhóm Túc Số Thầy Bảy Mươi:

“Sự Chuộc Tội không phải chỉ dành cho những người tội lỗi” (“Beauty for Ashes: The Atonement of Jesus Christ,” Ensign, tháng Tư năm 1990, 7). Các anh chị em có thể muốn viết lời phát biểu này lên trên bảng và đề nghị học sinh viết lời này trong quyển thánh thư của họ bên cạnh An Ma 7:11–13.

  • Dựa trên điều chúng ta đã đọc trong An Ma 7:11–13, các em nghĩ Anh Cả Hafen có ý nói gì khi ông nói rằng “Sự Chuộc Tội không phải chỉ dành cho những người tội lỗi”?

Viết lên trên bảng lẽ thật sau đây: Chúa Giê Su Ky Tô đã chịu đau khổ để giải cứu chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết và giúp chúng ta vượt qua những thử thách của trần thế.

Để giúp học sinh hiểu thêm về cách họ có thể trông cậy vào Sự Chuộc Tội của Đấng Cứu Rỗi, hãy đọc lời phát biểu sau đây của Anh Cả Jeffrey R. Holland thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ:

Anh Cả Jeffrey R. Holland

″Các anh chị em có đang đương đầu với một con quỷ—thuốc lá, ma túy, cờ bạc hoặc bệnh dịch hình ảnh sách báo khiêu dâm độc hại hiện nay không? … Các anh chị em có hoang mang về giới tính của mình hay đang tìm kiếm lòng tự trọng không? Các anh chị em—hoặc một người nào đó mà mình yêu thương—có đang đương đầu với bệnh tật, chán nản hoặc cái chết không? Dù các anh chị em cần phải làm bất cứ điều gì khác để giải quyết những mối quan tâm này, thì trước tiên hãy đến với phúc âm của Chúa Giê Su Ky Tô. Hãy tin cậy vào những lời hứa của thiên thượng. …

″Sự trông cậy này vào bản tính thương xót của Thượng Đế là điều chủ yếu của phúc âm mà Đấng Ky Tô đã giảng dạy. Tôi làm chứng rằng Sự Chuộc Tội của Đấng Cứu Rỗi không những nâng chúng ta khỏi gánh nặng tội lỗi, mà còn luôn cả gánh nặng thất vọng và đau khổ, gánh nặng đau buồn và tuyệt vọng của chúng ta nữa. [Xin xem An Ma 7:11–12.] Từ lúc ban đầu, việc tin cậy vào sự giúp đỡ như vậy là để cho chúng ta một lý do lẫn một con đường để tiến triển, một cách để khích lệ chúng ta mang lấy sự cứu rỗi của mình″ (“Những Đồ Hư Hại để Được Sửa Chữa Lại,” Ensign hoặc Liahona, tháng Năm năm 2006, 70–71).

  • Làm thế nào một sự hiểu biết về An Ma 7:11–13 có thể giúp chúng ta khi chúng ta phải đối phó với những thử thách?

Để giải thích một số cách chúng ta có thể nhận được sự giúp đỡ và sức mạnh nhờ vào Sự Chuộc Tội của Chúa Giê Su Ky Tô, hãy đọc các tình huống sau đây. Sau khi đọc mỗi tình huống, hãy yêu cầu học sinh giải thích bằng cách nào Chúa Giê Su Ky Tô có thể giúp một người đối phó với một thử thách như vậy, qua Sự Chuộc Tội của Ngài,.

  1. Một thiếu nữ bị liệt cả hai chân vì tai nạn ô tô.

  2. Một thiếu niên xấu hổ về một số lựa chọn xấu của mình. Em ấy cảm thấy chán nản và vô giá trị.

  3. Cha của một thiếu niên vừa mới qua đời, và người thiếu niên này cùng mẹ của mình dọn đến một thành phố mới. Em ấy cảm thấy buồn và cô đơn, và không thể thấy được làm thế nào mà bất cứ điều gì còn có thể đúng nữa.

Chia sẻ chứng ngôn của các anh chị em về sức mạnh của Sự Chuộc Tội và mức độ tiếp cận của Sự Chuộc Tội. Sau đó cho học sinh một vài phút để trả lời trong sổ tay ghi chép hoặc nhật ký ghi chép việc học thánh thư cho một trong những câu hỏi sau đây. (Các anh chị em có thể muốn viết lên trên bảng những câu hỏi này trước khi lớp học bắt đầu, hoặc chuẩn bị một tờ giấy phát tay với các câu hỏi, hoặc đọc các câu hỏi từ từ để học sinh có thể viết xuống).

  • Có khi nào Sự Chuộc Tội đã giúp các em hoặc một người nào đó các em biết trong một trong những cách được đề cập trong An Ma 7:11–13 không?

  • Các em sẽ làm gì để trông cậy vào Sự Chuộc Tội khi các em đối phó với những thử thách?

Mời một vài học sinh chia sẻ với lớp học về điều họ đã viết. (Nhắc học sinh nhớ rằng họ không cần phải chia sẻ những kinh nghiệm quá riêng tư).

An Ma 7:14–27

An Ma khuyến khích dân chúng tiếp tục đi theo con đường dẫn đến vương quốc của Thượng Đế

Để nhắc nhở học sinh cách An Ma mô tả trạng thái thuộc linh của dân chúng ở Ghê Đê Ôn, hãy mời một người trong số họ đọc An Ma 7:19. Nhấn mạnh rằng dân chúng “đang đi trong con đường dẫn đến vương quốc của Thượng Đế.” Giải thích rằng An Ma muốn giúp họ ở lại trên con đường đó.

Để giúp học sinh thấy rằng bằng cách sống theo các nguyên tắc phúc âm, chúng ta đi theo con đường dẫn đến vương quốc của Thượng Đế, hãy vẽ hình một con đường ngang qua tấm bảng. Ở đầu con đường, hãy viết Trần thế. Ở cuối con đường, hãy viết Vương quốc của Thượng Đế. Chia lớp ra thành hai nhóm. Mời một nhóm nghiên cứu An Ma 7:14–16 và nhóm kia nghiên cứu An Ma 7:22–24. Yêu cầu các nhóm đó tìm kiếm điều chúng ta cần phải làm và chúng ta cần phải là người như thế nào để đi theo con đường dẫn đến vương quốc của Thượng Đế.

Sau khi học sinh đã có đủ thời gian để đọc, hãy mời một vài người trong số họ lên trên bảng. Yêu cầu họ viết dọc trên con đường các hành động và các thuộc tính họ đã tìm thấy mà dẫn đến vương quốc của Thượng Đế. Các anh chị em có thể cân nhắc việc hỏi học sinh xem một số hành động hoặc thuộc tính dọc trên con đường có ý nghĩa gì đối với họ. Các anh chị em cũng có thể yêu cầu họ nghĩ về cách họ có thể noi theo con đường này trong cuộc sống của họ. Làm chứng rằng khi chúng ta sống trung tín, thì chúng ta “đang đi trong con đường dẫn đến vương quốc của Thượng Đế” (An Ma 7:19).

biểu tượng thông thạo thánh thưThông Thạo Thánh Thư—An Ma 7:11–13

An Ma 7:11–13 là một đoạn thánh thư thông thạo dài nên có thể là khó để học sinh học thuộc lòng. Tuy nhiên, lời lẽ của An Ma chứa đựng những lời cụ thể mà có thể giúp học sinh ghi nhớ trong suốt cuộc đời của họ quyền năng và tầm với rộng lớn của Sự Chuộc Tội. Để giúp họ thuộc lòng những từ chính yếu này, hãy viết lên trên bảng đoạn An Ma 7:11–13 trước khi lớp học bắt đầu, thay thế những chỗ trống với những từ chính yếu sau đây mỗi khi thấy chúng: đau đớn, thống khổ, cám dỗ, bệnh tật, cái chết, sự yếu đuối, tội lỗi, sự phạm giới. (Ví dụ, bài viết của các anh chị em về An Ma 7:11 sẽ bắt đầu như thế này: “Và Ngài sẽ đi ra ngoài đời để chịu đựng … và… và mọi sự.”)

Khi các anh chị em đọc to An Ma 7:11–13 chung với lớp học, hãy yêu cầu học sinh cung cấp các từ còn thiếu. Sau khi các anh chị em đã làm điều này một vài lần, hãy yêu cầu học sinh xem họ có thể viết lên trên một tờ giấy rời những từ nói về điều Đấng Cứu Rỗi đã mang thay cho họ không. Mời học sinh luôn luôn ghi nhớ điều Chúa Giê Su Ky Tô đã làm cho họ, để khi họ trải qua những thử thách thì họ có thể có đức tin lớn lao hơn nơi “quyền năng giải thoát của Ngài.”

Xin lưu ý: Các anh chị em có thể muốn dành ra một vài phút vào lúc bắt đầu lớp học kế tiếp của mình để xem học sinh vẫn có thể nhớ được các từ chính yếu này liên quan đến việc tiếp cận vô hạn của Sự Chuộc Tội của Đấng Cứu Rỗi không.

Chú Thích Dẫn Giải và Thông Tin về Quá Trình

An Ma 6:6. Nhịn ăn và cầu nguyện thay cho “những người chưa từng được biết Thượng Đế”

Để nhấn mạnh rằng các phước lành của các tín hữu Giáo Hội là nhằm dành cho tất cả con cái của Thượng Đế, các anh chị em có thể muốn đọc lời phát biểu sau đây của Anh Cả Jeffrey R. Holland thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ:

Mọi người đều cầu nguyện cho những người truyền giáo. Cầu xin cho điều đó luôn luôn được như vậy. Trong cùng một tinh thần đó, chúng tôi cũng xin cầu nguyện cho những người đang (hay cần) gặp những người truyền giáo. Ở Gia Ra Hem La, những tín hữu được truyền lệnh ′cùng nhau nhịn ăn và thành khẩn cầu nguyện′ [An Ma 6:6] cho những người chưa gia nhập Giáo Hội của Thượng Đế. Chúng ta cũng có thể làm như thế.

″Chúng ta cũng có thể cầu nguyện hàng ngày cho các kinh nghiệm truyền giáo cá nhân của mình. Cầu nguyện để dưới sự hướng dẫn của Thượng Đế về những điều như thế, cơ hội truyền giáo mà các anh chị em mong muốn, đã và đang được chuẩn bị sẵn trong tâm hồn của một người nào đó đang khát khao và tìm kiếm điều các anh chị em có. ′Vì trên thế gian này vẫn còn … những người bị xa cách lẽ thật chỉ vì họ không biết tìm thấy lẽ thật đâu cả′ [GLGƯ 123:12.] Hãy cầu nguyện để họ sẽ tìm ra các anh chị em! Và rồi hãy cảnh giác, bởi vì có nhiều người trong thế giới của các anh chị em cảm thấy đói khát trong cuộc sống của họ” (“Làm Chứng về Ta,” Liahona,, tháng Năm năm 2001, 15).

An Ma 7:1-5. Những người dân ở xứ Ghê Đê Ôn

An Ma 7 chứa đựng những lời dạy của An Ma cho những người sống ở trong thành phố Ghê Đê Ôn nằm trong thung lũng Ghê Đê Ôn, “lấy theo tên người đã bị bàn tay Nê Hô giết chết bằng gươm” (An Ma 6:7). Ghê Đê Ôn là một môn đồ trung thành của Chúa Giê Su Ky Tô, là người đã từng là một công cụ trong tay của Thượng Đế trong việc giải thoát dân Lim Hi ra khỏi vòng nô lệ. Ông chống lại giáo lý của Nê Hô cho đến chết bằng lời của Thượng Đế. (Xin xem Mô Si A 22:3–9; An Ma 1:7–9). Dân chúng ở trong xứ mang tên của người đàn ông trung tín này đều cũng rất trung tín (xin xem An Ma 7:17–20, 26). An Ma đã có thể nói với họ những lời thánh thiện với niềm vui, vì biết rằng họ đã tin và đã chọn thờ phượng Thượng Đế chân chính và hằng sống (xin xem An Ma 7:6). Lòng trung tín của họ có thể đã chuẩn bị cho họ để tiếp nhận bài học hùng hồn của An Ma về Sự Chuộc Tội—rằng Chúa Giê Su Ky Tô sẽ “mang lấy những đau đớn và bệnh tật của dân Ngài,” Ngài sẽ “giúp đỡ dân Ngài theo những sự yếu đuối của họ,” và rằng Ngài sẽ “mang lấy những tội lỗi của dân Ngài” (An Ma 7:11–13).

An Ma 7:10. Chúa Giê Su giáng sinh “tại Giê Ru Sa Lem”

Chủ Tịch Joseph Fielding Smith giải thích về nơi sinh của Đấng Cứu Rỗi theo như lời tuyên bố của An Ma:

“Không có sự xung đột hay mâu thuẫn trong Sách Mặc Môn với bất cứ lẽ thật nào trong Kinh Thánh. Việc đọc kỹ về điều An Ma nói sẽ cho thấy rằng ông không có ý định tuyên bố rằng Chúa Giê Su sẽ sinh ra Giê Ru Sa Lem. An Ma biết rõ hơn. Joseph Smith và những người có cộng tác với ông trong việc cho ra đời Sách Mặc Môn cũng biết như vậy. Nếu An Ma nói: ‘giáng sinh Giê Ru Sa Lem, thành phố của tổ phụ chúng ta,’ thì điều đó chắc hẳn tạo ra mọi sự khác biệt trên thế gian. Thì chúng ta sẽ nói là ông đã sai. An Ma đã không sai, và điều ông nói là đúng sự thật.

″Tiến sĩ Hugh Nibley đã nói về điểm này trong khóa học dành cho chức tư tế vào năm 1957, An Approach to the Book of Mormon,, trong Bài Học 8, trang 85:

“‘… Một trong những điểm ưa thích để tấn công Sách Mặc Môn là lời phát biểu trong An Ma 7:10 rằng Đấng Cứu Rỗi sẽ giáng sinh “ở Giê Ru Sa Lem tức là xứ của tổ phụ chúng ta.” Giê Ru Sa Lem đây không phải là thành phố mà là “trong xứ của tổ phụ chúng ta,” đó chính là xứ. Đấng Ky Tô giáng sinh trong một ngôi làng cách thành phố Giê Ru Sa Lem khoảng 10 kilômét; chỗ đó không phải là trong thành phố, nhưng ở nơi mà bây giờ chúng ta biết chính là những người thời xưa chỉ định là “xứ Giê Ru Sa Lem”’” (Answers to Gospel Questions, do Joseph Fielding Smith Jr. Biên soạn, 5 tập [1957–66], 1:174).

An Ma 7:11–13. “Mọi sự đau đớn, thống khổ, cùng mọi cám dỗ”

Chủ Tịch Henry B. Eyring thuộc Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn đưa ra cái nhìn sâu sắc sau đây về sự an ủi chúng ta có thể nhận được nhờ vào Sự Chuộc Tội của Đấng Cứu Rỗi:

“Sẽ là điều an ủi cho chúng ta khi chúng ta cần phải chờ đợi trong cảnh khổ sở cho sự giải thoát đã được Đấng Cứu Rỗi hứa rằng với sự giải thoát này Ngài biết từ kinh nghiệm, cách để chữa lành và giúp đỡ chúng ta. Sách Mặc Môn cho chúng ta sự bảo đảm chắc chắn về quyền năng an ủi của Ngài. Và đức tin nơi quyền năng đó sẽ cho chúng ta lòng kiên nhẫn khi chúng ta cầu nguyện và làm việc cùng chờ đợi sự giúp đỡ. Ngài có lẽ đã biết cách giúp đỡ chúng ta hoàn toàn bằng sự mặc khải, nhưng Ngài đã chọn để học hỏi bằng kinh nghiệm của chính Ngài” (“Nghịch Cảnh,” Ensign hoặc Liahona, tháng Năm năm 2009, 24).

Anh Cả Dallin H. Oaks thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ dạy rằng Đấng Cứu Rỗi có thể giúp đỡ chúng ta với bất cứ loại thử thách nào chúng ta có thể gặp phải:

″Nhiều người đang mang những gánh nặng. Một số người đã mất đi một người thân hoặc phải trông nom cho một người thân bị tàn tật. Một số người đau đớn vì ly dị. Những người khác mong mỏi có được một cuộc hôn nhân vĩnh cửu. Một số người bị sa vào vòng nô lệ của những chất làm nghiện hoặc những thói quen nghiện ngập như rượu, thuốc lá, ma túy hay hình ảnh sách báo khiêu dâm. Những người khác thì có cơ thể bị tật nguyền hoặc suy yếu tinh thần. Một số người đang bị thử thách bởi fsức lôi cuốn đồng giới tính. Một số người có những cảm nghĩ thất vọng hoặc không xứng đáng.

″Quyền năng chữa lành của Chúa Giê Su Ky Tô—dù là để cất bỏ gánh nặng của chúng ta hoặc củng cố chúng ta để chúng ta chịu đựng và sống với gánh nặng đó … —đều có sẵn cho mỗi nỗi đau khổ trên trần thế” (“Ngài Làm Vơi Gánh Nặng,” Ensign hoặc Liahona, tháng Mười Một năm 2006, 6, 8).

Anh Cả Jeffrey R. Holland thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ đã viết về sự đồng cảm và khả năng của Đấng Ky Tô để giúp chúng ta:

“Đấng Ky Tô bước đi trên con đường mà mỗi người trần thế được kêu gọi để bước đi để Ngài sẽ biết cách giúp đỡ và củng cố chúng ta trong những thời gian khó khăn nhất. Ngài biết những gánh nặng nề và riêng tư nhất mà chúng ta đang mang. Ngài biết những nỗi đau đớn công khai và buốt nhói nhất mà chúng ta phải mang. Ngài xuống dưới tất cả mọi đau buồn như vậy để Ngài có thể nâng chúng ta lên trên nỗi đau buồn đó. Không có nỗi thống khổ hay buồn phiền hoặc buồn bã nào trong cuộc đời mà Ngài đã không mang thay cho chúng ta và mang lên đôi vai dũng cảm và trắc ẩn của Ngài” (Christ and the New Covenant: The Messianic Message of the Book of Mormon [1997], 223–24).