Thư Viện
Bài Học 156: Mô Rô Ni 7:20–48


Bài Học 156

Mô Rô Ni 7:20–48

Lời Giới Thiệu

Mô Rô Ni ghi lại phần kết thúc của bài giảng mà cha của ông, Mặc Môn, đã đưa ra trong một nhà hội nhiều năm trước đó. Trong bài giảng này, Mặc Môn đã dạy cho những người lắng nghe ông cách ″nắm vững được mọi điều tốt lành” (Mô Rô Ni 7:20, 25). Ông giải thích mối quan hệ giữa đức tin, hy vọng và lòng bác ái, và kết thúc bằng một lời khẩn nài dân của ông nên cầu nguyện lên Đức Chúa Cha với tất cả mãnh lực của lòng mình để có được ân tứ về lòng bác ái, ″tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô” (Mô Rô Ni 7:47).

Những Đề Nghị về Cách Giảng Dạy

Mô Rô Ni 7:20–39

Mặc Môn dạy rằng nhờ vào đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô, chúng ta có thể nắm vững được mọi điều tốt lành

Trước khi lớp học bắt đầu, hãy viết câu hỏi sau đây lên trên bảng:

Một số những điều tốt lành mà Cha Thiên Thượng đã ban phước cho các em là gì?

Vào lúc bắt đầu lớp học, hãy cho học sinh một hoặc hai phút để trả lời câu hỏi này trong sổ tay hoặc nhật ký ghi chép việc học thánh thư. Sau đó mời họ đọc một số điều họ đã liệt kê.

Đọc to Mô Rô Ni 7:24. Yêu cầu lớp học dò theo, tìm kiếm nguồn gốc của tất cả những điều tốt lành đã đến với họ.

  • Ai là nguồn gốc của tất cả những điều tốt lành mà đã đến với các em? (Những câu trả lời của học sinh có thể khác nhau, nhưng họ cần phải nói lên lẽ thật sau đây: Tất cả những điều tốt lành đều đến nhờ vào Chúa Giê Su Ky Tô).

Để giúp học sinh hiểu thêm về giáo lý đã được giảng dạy trong Mô Rô Ni 7:24, hãy giải thích rằng là con cháu của A Đam và Ê Va, chúng ta ″sa ngã″ và không thể tự mình nhận được bất cứ phước lành nào (xin xem thêm An Ma 22:14 ; Ê The 3:2; Những Tín Điều 1:3). Nếu không có Chúa Giê Su Ky Tô và Sự Chuộc Tội của Ngài, thì ″chẳng có điều gì tốt lành đến với [chúng ta].″ Mọi điều tốt lành mà chúng ta đã từng nhận được từ Cha Thiên Thượng đều đã đến nhờ vào Đấng Cứu Rỗi và Sự Chuộc Tội của Ngài.

Giải thích rằng Cha Thiên Thượng có nhiều phước lành dành cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ″nắm vững được mọi điều tốt lành” (Mô Rô Ni 7:19), và Ngài muốn ban cho chúng ta mọi điều mà Ngài có (xin xem GLGƯ 84:38).

Mời một học sinh đọc to câu hỏi của Mặc Môn trong Mô Rô Ni 7:20. Sau đó mời học sinh đọc thầm Mô Rô Ni 7:21–24, tìm kiếm điều mà các câu này giảng dạy về cách chúng ta có thể nắm vững được mọi điều tốt lành.

  • Dựa vào điều các em đã đọc Mô Rô Ni 7:21–24, các em sẽ trả lời câu hỏi của Mặc Môn trong Mô Rô Ni 7:20 như thế nào? (Khi học sinh trả lời, hãy giúp họ nhận ra nguyên tắc sau đây: Khi sử dụng đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô, chúng ta có thể nắm vững được mọi điều tốt lành).

Để giúp học sinh hiểu được cách họ có thể ″nắm vững được mọi điều tốt lành,″ hãy yêu cầu một vài người trong số họ lần lượt đọc to từ Mô Rô Ni 7:25–26, 32–38. Mời một nửa lớp học nhận ra những cách chúng ta nên cho thấy đức tin của mình nơi Chúa Giê Su Ky Tô. Mời một nửa lớp học kia tìm kiếm những điều tốt lành đến với chúng ta như là một kết quả. (Khi một học sinh đọc câu 33, các anh chị em có thể muốn giải thích rằng cụm từ ″thích đáng đối với ta″ ám chỉ những điều thích hợp với ý muốn của Chúa).

Sau khi học sinh báo cáo điều họ đã tìm thấy, hãy cân nhắc việc yêu cầu họ viết xuống một mục tiêu mà sẽ giúp họ sử dụng đức tin lớn lao hơn nơi Chúa Giê Su Ky Tô và nắm vững được mọi điều tốt lành mà Cha Thiên Thượng muốn ban cho họ. Chia sẻ chứng ngôn của các anh chị em rằng các phước lành lớn lao đến qua Đấng Cứu Rỗi, phúc âm và Sự Chuộc Tội của Ngài. Khuyến khích học sinh sử dụng đức tin lớn lao hơn nơi Ngài.

Mô Rô Ni 7:40–43

Mặc Môn dạy rằng đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô dẫn chúng ta đến việc có được hy vọng cho cuộc sống vĩnh cửu

Vẽ hình một chiếc ghế đẩu ba chân lên trên bảng (hoặc trưng bày một cái ghế đẩu ba chân).

cái ghế đẩu ba chân

Đọc lời phát biểu sau đây của Anh Cả M. Russell Ballard thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ:

Anh Cả M. Russell Ballard

″Ba nguyên tắc thiêng liêng tạo thành một nền tảng mà trên đó chúng ta có thể xây dựng cấu trúc của cuộc sống chúng ta. … Ba nguyên tắc này cùng nhau mang đến cho chúng ta một nền tảng hỗ trợ giống như mấy cái chân của một cái ghế đẩu ba chân” (“The Joy of Hope Fulfilled,” Ensign, tháng Mười Một năm 1992, 33).

Dán cụm từ Đức Tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô lên một trong mấy cái chân của cái ghế đẩu. Yêu cầu học sinh suy nghĩ về hai cái chân kia có thể tượng trưng cho điều gì. Sau đó mời học sinh đọc thầm Mô Rô Ni 7:40 để tìm ra điều cái chân thứ hai tượng trưng. (Cái chân thứ hai tượng trưng cho hy vọng).

Đọc to những lời diễn đạt sau đây về hy vọng. Mời học sinh lắng nghe những điểm khác biệt giữa hai lối diễn đạt này.

  1. Tôi hy vọng hôm nay trời sẽ mưa.

  2. Tôi có hy vọng vào lời hứa của Chúa rằng tôi có thể cảm thấy bình an nhờ vào sự hối cải.

  • Những lời diễn đạt này khác nhau về những phương diện nào? (Giúp học sinh thấy rằng trong ví dụ đầu tiên, từ hy vọng nói đến một ước muốn không chắc chắn. Trong ví dụ thứ hai, từ hy vọng là một lời diễn đạt về sự tin tưởng. Đó là một động lực để hành động, và được đặt trọng tâm nơi Sự Chuộc Tội của Chúa Giê Su Ky Tô).

Để giúp học sinh hiểu được từ hy vọng như được sử dụng trong thánh thư, hãy mời một học sinh đọc to lời phát biểu sau đây của Chủ Tịch Dieter F. Uchtdorf thuộc Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn:

Chủ Tịch Dieter F. Uchtdorf

″Hy vọng là một ân tứ của Thánh Linh. …

″Hy vọng không phải là sự hiểu biết, nhưng đúng ra, là sự tin cậy bền vững rằng Chúa sẽ làm tròn lời hứa của Ngài với chúng ta. Đó là sự tin tưởng rằng nếu chúng ta sống theo các luật pháp của Thượng Đế và những lời của các vị tiên tri của Ngài bây giờ, thì chúng ta sẽ nhận được các phước lành mong muốn trong tương lai. Đó là tin tưởng và kỳ vọng rằng những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được đáp ứng. Đó là sự biểu lộ trong sự tin tưởng, lạc quan, nhiệt tình và bền bỉ kiên trì” (“Quyền Năng Vô Tận của Niềm Hy Vọng,” Ensign hoặc Liahona, tháng Mười Một năm 2008, 21–22).

Mời một học sinh đọc to Mô Rô Ni 7:41. Yêu cầu lớp học dò theo, tìm kiếm xem Mặc Môn đã dạy chúng ta nên hy vọng vào điều gì. Trong khi học sinh báo cáo điều họ tìm thấy, hãy dán cụm từ Hy Vọng về Cuộc Sống Vĩnh Cửu lên cái chân thứ hai của cái ghế đẩu.

Hãy nêu lên rằng 1 Mô Rô Ni 7:41 là một đoạn thánh thư thông thạo. Các anh chị em có thể muốn đề nghị các học sinh đánh dấu câu này trong một cách đặc biệt để họ sẽ có thể tìm ra nó một cách dễ dàng.

  • Theo Mô Rô Ni 7:41, làm thế nào chúng ta có thể có hy vọng để đạt được cuộc sống vĩnh cửu? (Mặc dù học sinh có thể sử dụng các từ khác nhau, nhưng họ cần nhận ra nguyên tắc sau đây: Nếu sử dụng đức tin nơi Chúa Giê Su Ky Tô, thì chúng ta có thể có được niềm hy vọng nhờ vào Sự Chuộc Tội của Ngài để đạt được cuộc sống vĩnh cửu).

Mời học sinh tự mình đọc Mô Rô Ni 7:42–43, tìm kiếm những đặc điểm chúng ta cần để có được đức tin và hy vọng. Yêu cầu họ báo cáo điều họ đã tìm thấy. (Các anh chị em có thể muốn giải thích rằng nhu mì và khiêm tốn trong lòng có nghĩa là khiêm nhường, hiền lành, và tuân phục ý muốn của Chúa).

  • Các em nghĩ tại sao sự nhu mì và khiêm tốn trong lòng là cần thiết để có được niềm tin và hy vọng nơi Sự Chuộc Tội của Chúa Giê Su Ky Tô?

Mời học sinh trả lời cho câu hỏi sau đây trong sổ tay hoặc nhật ký ghi chép việc học thánh thư:

  • Làm thế nào đức tin của các em nơi Chúa Giê Su Ky Tô và Sự Chuộc Tội của Ngài cho các em hy vọng rằng các em sẽ nhận được cuộc sống vĩnh cửu?

Mô Rô Ni 7:44–48

Mặc Môn dạy về tầm quan trọng của lòng bác ái

Xem lại cái ghế đẩu ba chân. Mời học sinh đọc thầm Mô Rô Ni 7:44 và nhận ra nhãn tên cho cái chân thứ ba của cái ghế đẩu. Khi học sinh báo cáo điều họ tìm thấy, hãy dán lên cái chân thứ ba của cái ghế đẩu từ Lòng Bác Ái. Yêu cầu họ định nghĩa lòng bác ái bằng lời riêng của họ.

Mời một học sinh đọc to Mô Rô Ni 7:45–47. Yêu cầu lớp học dò theo, tìm kiếm cách Mặc Môn đã mô tả và định nghĩa lòng bác ái.

  • Mặc Môn định nghĩa lòng bác ái trong Mô Rô Ni 7:47 như thế nào? (“Tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô”).

  • Các em nghĩ lòng bác ái sẽ không bao giờ hư mất có nghĩa là gì?

  • Các em nghĩ tại sao chúng ta không là gì hết nếu chúng ta không có lòng bác ái?

Mời học sinh chọn những phần mô tả về lòng bác ái trong Mô Rô Ni 7:45 và giải thích điều họ nghĩ những phần mô tả đó có nghĩa gì. Làm sáng tỏ những lời giải thích của họ nếu cần. (Ví dụ, ″nhịn nhục lâu dài″ có nghĩa là một người nào đó kiên trì chịu đựng những thử thách. ″Không ganh tỵ″ có nghĩa là một người không ghen ghét với những người khác. ″Không cao ngạo″ có nghĩa là một người nào đó rất khiêm nhường. ″Không tìm lợi lộc cho cá nhân mình″ mô tả đức tính của việc đặt Thượng Đế và những người khác trước bản thân mình. ″Không dễ bị khiêu khích″ có nghĩa là không dễ nổi giận. ″Tin tưởng mọi sự″ mô tả một người nào đó chấp nhận tất cả lẽ thật).

Hỏi học sinh là họ có thể phản ứng như thế nào trong từng tình huống sau đây nếu họ thiếu lòng bác ái. Sau đó hỏi họ là họ có thể phản ứng như thế nào nếu họ tràn đầy lòng bác ái. (Các anh chị em có thể làm cho những tình huống này thích nghi với nhu cầu và lợi ích của học sinh mà các anh chị em giảng dạy).

  1. Người ta chế nhạo các em hay một người nào khác ở trường.

  2. Các em có một đứa em trai hoặc em gái thường làm các em bực mình.

  3. Các em biết một người nào đó đã phạm một tội nghiêm trọng.

  4. Các em không thích một người cố vấn mới của nhóm túc số hoặc lớp học như các em đã thích người cố vấn trước đó.

Mời một học sinh đọc to Mô Rô Ni 7:48. Yêu cầu lớp học dò theo và nhận ra điều chúng ta cần phải làm để được ban phước với ân tứ về lòng bác ái. Khi học sinh đưa ra những câu trả lời, hãy chắc chắn rằng nguyên tắc sau đây là rõ ràng: Nếu chúng ta cầu nguyện lên Đức Chúa Cha với tất cả mãnh lực của lòng mình và sống với tư cách là các tín đồ chân thật của Chúa Giê Su Ky Tô, thì chúng ta có thể được tràn đầy lòng bác ái.

Hãy nêu lên rằng Mô Rô Ni 7:45, 47–48 là một đoạn thánh thư thông thạo. Các anh chị em có thể muốn đề nghị rằng các học sinh đánh dấu các câu này trong một cách đặc biệt để họ có thể tìm ra các đoạn đó một cách dễ dàng.

  • Các em nghĩ tại sao chúng ta cần phải cầu nguyện với tất cả mãnh lực của lòng mình để có được ân tứ về lòng bác ái?

  • Khi nào các em đã chứng kiến các tấm gương về lòng bác ái? (Mời một vài học sinh chia sẻ kinh nghiệm. Các anh chị em cũng có thể muốn chia sẻ một kinh nghiệm của riêng mình).

  • Khi nào các em đã cảm thấy rằng Chúa đã giúp các em cảm thấy bác ái hơn đối với những người khác?

Yêu cầu học sinh xem lại Mô Rô Ni 7:45 và chọn một yếu tố về lòng bác ái mà họ cần phải cải thiện. Khuyến khích họ cầu nguyện để có được ân tứ về lòng bác ái trong khi họ cố gắng để cải thiện trong lĩnh vực này. Làm chứng về ảnh hưởng mà đức tin, hy vọng, và lòng bác ái đã có trong cuộc sống của các anh chị em.

biểu tượng thông thạo thánh thưThông Thạo Thánh Thư—Mô Rô Ni 7:41

Giúp học sinh thuộc lòng Mô Rô Ni 7:41. Hãy cân nhắc việc sử dụng một trong số các phương pháp đã được giải thích trong phần phụ lục ở cuối sách học này.

biểu tượng thông thạo thánh thưThông Thạo Thánh Thư—Mô Rô Ni 7:45, 47–48

Mời các học sinh chọn từ danh sách sau đây một người mà họ muốn có nhiều lòng bác ái hơn: một người trong gia đình, một thành viên trong nhóm túc số hoặc lớp học, một người bạn học cùng lớp, một người bạn, hoặc một người hàng xóm. Khuyến khích họ suy nghĩ về người mà họ đã chọn khi họ đọc Mô Rô Ni 7:45 và cân nhắc những cách họ có thể cho người ấy thấy tình yêu thương giống như Đấng Ky Tô hơn. Mời họ viết trong sổ tay hoặc nhật ký ghi chép việc học thánh thư một hoặc hai cách họ sẽ cho thấy lòng bác ái đối với người mà họ đã chọn. Mời họ làm cho nỗ lực này thành một phần của lời cầu nguyện của họ trong tuần tới. Các anh chị em có thể cân nhắc việc cho các học sinh một cơ hội để chia sẻ kinh nghiệm của họ trong những ngày sắp tới.

Ghi Chú: Vì bài học này rất dài nên các anh chị em có thể muốn sử dụng sinh hoạt này vào một ngày khác, khi có thêm thời gian.

Chú Thích Dẫn Giải và Thông Tin về Quá Trình

Mô Rô Ni 7:29–31. Việc phục sự của các thiên sứ

Anh Cả Dallin H. Oaks thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ mô tả việc phục sự của các thiên sứ:

“‘Từ “thiên sứ” được sử dụng trong thánh thư cho bất cứ nhân vật thiên thượng nào mang sứ điệp của Thượng Đế’ (George Q. Cannon, Gospel Truth, do Jerreld L. Newquist tuyển chọn 1987, 54 ). Thánh thư thuật lại rất nhiều trường hợp mà trong đó có một thiên sứ đích thân hiện đến. Thiên sứ hiện đến cùng Xa Cha Ri và Ma Ri (xin xem Lu Ca 1) và Vua Ben Gia Min và Nê Phi, con trai của Hê La Man (xin xem Mô Si A 3:2; 3 Nê Phi 7:17–18) chỉ là một vài ví dụ. …

“… Việc phục sự của các thiên sứ cũng có thể là không thấy được. Các sứ điệp của các thiên sứ có thể được ban cho bởi một tiếng nói hoặc chỉ bằng ý nghĩ hay cảm giác được truyền đạt cho tâm trí. Chủ Tịch John Taylor mô tả ‘tác động của các thiên sứ, hay sứ giả của Thượng Đế, đến tâm trí của chúng ta, để tâm hồn có thể nhận thức được … những mặc khải từ thế giới vĩnh cửu’ (Gospel Kingdom, do G. Homer Durham tuyển chọn 1987, 31).

“Nê Phi đã mô tả ba biểu hiện để phục sự của các thiên sứ khi ông nhắc nhở những người anh chống đối của ông rằng (1) họ đã ‘đã thấy một thiên sứ, (2) họ đã’ đôi khi … có nghe tiếng nói của vị ấy, và (3) cũng là một thiên sứ ‘đã nói với [họ] bằng một tiếng nói nhỏ nhẹ êm ái’ mặc dù họ đã ‘mất hết cảm giác’ và ‘không còn cảm thấy lời nói của vị ấy nữa’ (1 Nê Phi 17:45). Các thánh thư chứa đựng nhiều lời phát biểu khác rằng các thiên sứ được gửi đến giảng dạy phúc âm và mang con người lại cùng Đấng Ky Tô (xin xem Hê Bơ Rơ 1:14; An Ma 39:19; Mô Rô Ni 7:25, 29, 31–32; GLGƯ 20:35). Hầu hết những giao tiếp của thiên sứ đều được cảm nhận hoặc được nghe hơn là nhìn thấy” (“The Aaronic Priesthood and the Sacrament,” Ensign, tháng Mười Một năm 1998, 38–39).

Mô Rô Ni 7:45–48. Lòng bác ái, “tình thương yêu thanh khiết của Đấng Ky Tô”

Chủ Tịch Thomas S. Monson đã dạy về sự cần thiết để có ân tứ về lòng bác ái:

“Có một nhu cầu nghiêm trọng về lòng bác ái mà lưu ý đến những người bị làm ngơ, đem hy vọng đến với những người bị nản lòng, và những người đau khổ. Lòng bác ái thật sự là tình yêu thương bằng hành động. Lòng bác ái đều cần đến ở khắp mọi nơi.

“Lòng bác ái là có được sự kiên nhẫn với một người nào đó đã làm cho chúng ta thất vọng. Đó là không để bị thúc đẩy để trở nên bị tổn thương dễ dàng. Đó là chấp nhận những yếu kém và khuyết điểm. Đó là chấp nhận bản tính thật của người khác. Đó là cái nhìn vượt quá những diện mạo bên ngoài đến những thuộc tính mà sẽ không giảm bớt với thời gian. Đó là không để cho bị thúc đẩy để phân biệt những người khác.

“… Cuộc sống không hoàn hảo đối với bất cứ một ai trong chúng ta. Thay vì xét đoán và chỉ trích lẫn nhau, cầu xin cho chúng ta có tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô đối với đồng bào của mình trong cuộc hành trình suốt cuộc sống này.

“… Cầu xin cho lòng bác ái hướng dẫn các chị em trong mọi việc làm của mình. Cầu xin cho lòng bác ái thấm nhuần vào chính tâm hồn của các chị em và được biểu lộ trong mọi ý nghĩ và hành động của các chị em” (“Lòng Bác Ái Không Bao Giờ Hư Mất,” Ensign hoặc Liahona, tháng Mười Một năm 2010, 124–25).

Anh Cả Marvin J. Ashton thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ đã liệt kê những cách chúng ta có thể cho thấy lòng bác ái:

“Lòng bác ái thật sự không phải là điều gì mà ta mang đi cho; đó là một điều ta có được và làm thành một phần của bản thân mình.

“Có lẽ lòng bác ái lớn nhất có được khi chúng ta tử tế với nhau, khi chúng ta không phê phán hay phân biệt một người khác, khi chúng ta hết lòng tin cậy nhau hoặc giữ im lặng. Lòng bác ái là chấp nhận sự khác biệt, những yếu kém, và thiếu sót của một người nào đó; có kiên nhẫn với một người nào đó đã làm cho chúng ta thất vọng; hoặc chống lại sự thúc đẩy để trở nên bị phật lòng khi một người nào đó không làm một điều gì đó theo cách chúng ta có thể đã hy vọng. Lòng bác ái là từ chối lợi dụng sự yếu kém của người khác và sẵn lòng tha thứ cho người nào đó đã làm tổn thương chúng ta. Lòng bác ái là mong đợi điều tốt đẹp nhất của nhau” (“The Tongue Can Be a Sharp Sword,” Ensign, tháng Năm năm 1992, 19).

Mô Rô Ni 7:45–48. “Định nghĩa lớn hơn về ‘tình yêu thanh khiết của Đấng Ky Tô’”

Khi đề cập đến những lời của Mặc Môn trong Mô Rô Ni 7:45–48, Anh Cả Jeffrey R. Holland thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ đã dạy:

“Là điều hữu ích để lưu ý rằng lòng bác ái, hay ‘tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô,’ mà chúng ta phải quý trọng có thể được hiểu theo hai cách. Một trong những ý nghĩa của từ này là tình yêu thương nhân từ đầy tha thứ mà các môn đồ của Đấng Ky Tô nên có với nhau. Đó là, tất cả các Ky Tô hữu nên cố gắng yêu thương như Đấng Cứu Rỗi đã yêu thương, cho thấy lòng trắc ẩn thanh khiết, đầy cứu chuộc dành cho tất cả mọi người. Rủi thay, rất ít người trần thế, nếu có, đã hoàn toàn thành công trong nỗ lực này, nhưng đó là một lời mời gọi tất cả mọi người nên cố gắng để đáp ứng.

“Tuy nhiên, định nghĩa lớn hơn về ‘tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô,’ không phải là điều mà chúng ta là các Ky Tô hữu cố gắng nhưng phần lớn đã không thể cho người khác thấy mà đúng ra là điều Đấng Ky Tô hoàn toàn thành công trong việc cho chúng ta thấy. Đúng vậy lòng bác ái đã được biết đến chỉ một lần. Nó được cho thấy một cách hoàn hảo và thanh khiết trong tình yêu thương bền bỉ, tột bậc, và cứu chuộc của Đấng Ky Tô dành cho chúng ta. Đó là tình yêu thương của Đấng Ky Tô dành cho chúng ta mà ‘nhịn nhục lâu dài, và là nhân từ, không ganh tỵ.’ Đó là tình yêu thương của Ngài dành cho chúng ta mà ‘không cao ngạo, … , không dễ bị khiêu khích, không nghĩ đến điều xấu xa.’ Đó là tình yêu của Đấng Ky Tô dành cho chúng ta mà ‘chịu đựng mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự và nhẫn nại mọi sự.’ Tình yêu thương đó như được cho thấy nơi Đấng Ky Tô là ‘lòng bác ái không bao giờ hư mất.’ Chính là lòng bác ái đó—tình yêu thương thanh khiết của Ngài dành cho chúng ta—mà nếu không có lòng bác ái đó, thì chúng ta sẽ không là gì cả và vô vọng trong số tất cả những người nam và người nữ khốn khổ nhất. Quả thật, những người được thấy có được các phước lành của tình yêu thương của Ngài vào ngày sau cùng—Sự Chuộc Tội, Sự Phục Sinh, cuộc sống vĩnh cửu, lời hứa vĩnh cửu—thì chắc chắn nó sẽ tốt đẹp với họ.

“Điều này không hề làm giảm thiểu lệnh truyền mà chúng ta phải cố gắng đạt được tình yêu thương này cho nhau. Chúng ta nên ‘cầu nguyện lên Đức Chúa Cha với tất cả mãnh lực của lòng mình, để [chúng ta] được tràn đầy tình yêu thương.’ [1 Cô Rinh Tô 13:4–5, 7–8; Mô Rô Ni 7:48.] Chúng ta nên cố gắng kiên trì và bền bỉ hơn, nhịn nhục và nhân từ hơn, ít ganh tỵ và cao ngạo hơn trong mối quan hệ của mình với những người khác. Chúng ta phải sống như Đấng Ky Tô đã sống, và phải yêu thương như Đấng Ky Tô đã yêu thương. Nhưng ‘tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô mà Mặc Môn đã nói tới chính là—tình yêu thương của Đấng Ky Tô. Với ân tứ thiêng liêng đó, sự cứu chuộc được ban cho đó, chúng ta có tất cả mọi điều; nếu không có điều đó thì chúng ta không có gì cả và cuối cùng chẳng là gì cả, ngoại trừ cuối cùng trở thành ‘quỷ dữ [và] quỷ sứ.’2 Nê Phi 9:9.]

“Cuộc sống đóng góp vào nỗi sợ hãi và thất bại. Đôi khi có những điều thiếu xót. Đôi khi con người làm cho chúng ta thất vọng, hoặc kinh tế hay doanh nghiệp hoặc chính phủ làm chúng ta thất vọng. Nhưng có một điều trong thời tại thế và thời vĩnh cửu không làm cho chúng ta thất vọng —tình yêu thương thanh khiết của Đấng Ky Tô. 

“… Phép lạ của lòng bác ái của Đấng Ky Tô vừa cứu rỗi lẫn thay đổi chúng ta. Tình yêu thương cứu chuộc của Ngài cứu chúng ta khỏi cái chết và ngục giới cũng như khỏi hành vi xác thịt, nhục dục, và quỷ quái. Tình yêu thương cứu chuộc đó cũng biến đổi tâm hồn, nâng cao tâm hồn lên khỏi các tiêu chuẩn sa ngã đến một nơi cao quý, thánh thiện hơn. Do đó, chúng ta cần phải ‘gắn bó với lòng bác ái’—tình yêu thanh khiết của Đấng Ky Tô của chúng ta và xác định nỗ lực của chúng ta hướng tới tình yêu thuơng thanh khiết của Ngài và tất cả những người khác—vì nếu không có tình yêu thương đó thì chúng ta chẳng là gì cả, và kế hoạch của chúng ta về hạnh phúc vĩnh cửu là hoàn toàn uổng phí. Nếu không có tình yêu thương cứu chuộc của Đấng Ky Tô trong cuộc sống của chúng ta, thì tất cả các đức tính khác—thậm chí các đức tính đạo đức và các việc thiện mẫu mực—cũng không đủ cho sự cứu rỗi và niềm vui” (Christ and the New Covenant: The Messianic Message of the Book of Mormon [1997], 336–37).